Thiếu thành chủ Phù Nam Hoa của thành Lão Long đang ngồi ngay ngắn đối diện với thiếu niên họ Tống, hai tay nâng niu một chiếc bình đáy khắc sơn tiêu. Hắn tập trung săm soi dấu khắc dưới đáy, giống như đang thưởng thức thân hình thướt tha yêu kiều của một giai nhân khuynh quốc khuynh thành. Dù có ngắm bao nhiêu lần cũng không biết chán, Phù Nam Hoa hết xem rồi lại lần vuốt và phà hơi chà nhẹ, cứ lật qua lật lại hơn nửa canh giờ, thích không nỡ rời.
Luôn có những người hoặc thứ gì đó khiến cho kẻ khác vừa gặp đã si mê, sinh lòng yêu thích. Đối với người khó tính như Phù Nam Hoa mà nói thì chiếc bình Dưỡng Tâm này đúng là thứ như thế.
Tuy rằng nhặt được của quý và bị lừa chỉ cách nhau một đường chỉ mỏng manh, nhưng Phù Nam Hoa tin chắc rằng mình là trường hợp trước, hơn nữa còn nhặt được của quý. thành Lão Long của hắn cũng vào hàng đi đầu trong số biết bao tông môn phía Nam của Đông Bảo Bình châu, nên Phù Nam Hoa chính là đệ tử tiên gia đã sống cảnh đại phú đại quý thật sự, đây cũng là lý do lúc trước Thá Kim Giản thua kém đủ điều.
Tống Tập Tân ngáp một cái, rúc người trên ghế, đổi một tư thế khác thoải mái hơn, lười nhác hỏi: “Phù huynh, nếu đã xác nhận đồ là thật thì có phải chúng ta nên bàn tới chuyện giá cả hay không?”
Phù Nam Hoa rất ít khi bị người khác xưng huynh gọi đệ, cố dằn cảm giác khó chịu trong lòng xuống, bịn rịn đặt chiếc bình Sơn Tiêu nọ xuống rồi cười nói: “Thành ý của tại hạ ra sao, trong lòng Tống lão đệ ắt cũng rõ, bằng không ta tuyệt đối sẽ không khảng khái, vừa gặp đã nói thẳng giá trị thật của chiếc bình này. Cũng sẽ không thể hiện bản thân yêu thích nó trắng trợn như vậy, tất cả cũng là để tránh cho hai bên ra giá quá cao, vừa vô bổ, lại còn mất tình huynh đệ. Tống lão đệ, Phù Nam Hoa ta đã xem ngươi là tri kỷ trên con đường tu hành ngày sau, hiện tại có thể yên tâm trao đổi. Sau này có thể họa phúc không rời, thậm chí là phó thác sinh tử hay không thì phải xem bước đầu tiên của chúng ta hôm nay có ổn hay không.”
Tống Tập Tân vươn một ngón tay ra, điểm vài cái với vị công tử cao quan với vẻ mặt vô cùng chân thành kia, mỉm cười nói: “Phù huynh à, ta là kẻ thô tục, toàn thân chỉ ám mùi tiền, bạn bè thì đương nhiên là nhận rồi. Nhưng đến lúc ngồi bàn chuyện làm ăn mà có kẻ nói đến tình nghĩa huynh đệ với ta thì khó tránh khỏi việc khiến ta tự hỏi lòng mình, rằng liệu sau này đến khi ta cần kẻ này niệm tình đệ huynh thì có phải trong lòng hắn lại đang tính chuyện thiệt hơn hay không?”
Phù Nam Hoa sầm mặt, thân thể hơi ngửa ra sau, tựa lưng lên ghế. Một ngón tay thì gõ nhẹ lên mặt bàn, động tác có vẻ nhẹ nhàng, chẳng phát ra bất kỳ tiếng động nào.
Tống Tập Tân lại như không hề phát hiện Phù Nam Hoa đã đổi thái độ: “Gọi ngươi một tiếng Phù huynh, lấy chiếc bình này ra cho ngươi xem đã là thành ý của ta rồi. Nếu hai bên đều muốn mua bán thuận lợi thì cứ dứt khoác một chút. Phù huynh ngươi ra giá, ta chỉ việc gật hay lắc là được. Ta sẽ cho ngươi hai cơ hội ra giá, qua hai lần thì xem như qua khỏi thôn này chẳng còn quán, dù huynh đệ ngươi có muốn đưa cả núi vàng biển bạc đến thì xin lỗi nhé, ta cũng sẽ không bán.”
“Miếng ngọc bội lúc trước xem như quà ra mắt của ta, tên của nó là Lão Long Bố Vũ. Cũng chẳng phải pháp bảo tiên gia có uy lực lớn gì, chỉ có tác dụng tránh nóng, thanh tâm và tránh uế, rất có lợi khi minh tưởng. Nếu như có thêm một môn khẩu quyết bí truyền của thượng tông đạo gia đi kèm thì có thể làm ít công to.”
Nụ cười của Phù Nam Hoa vô cùng chân thành, trên mặt cũng không hề có vẻ gì là kiêu căng bố thí. Hắn đặt một chiếc túi thêu lên bàn, đẩy nhẹ về phía Tống Tập Tân, trịnh trọng nói: “Túi tiền này của ta gọi là tiền cung dưỡng, là một trong rất nhiều loại tiền nhang đèn trên thế gian này, bình thường được cung phụng trong miếu thành hoàng hoặc trên các tượng thần trong Văn Xương các. Ngậm trong miệng, nhét vào miệng hoặc nắm trong tay đều được, hơn nữa đều có cách giải thích và công dụng riêng. Nhưng đây vẫn không phải điều quan trọng nhất, điểm mấu chốt thật sự chính là đống tiền đồng trong giống vàng này chính là kim tinh, thứ này còn quý giá hơn cả vàng. Tiên nhân từng nói ‘Thủy bích hoặc khả thải, Kim tinh bí mạc luận (1)’, chính là nói vật ấy. Một túi kim tinh cung dưỡng này xem như tiền mua bình, tuy không phải nhiều, nhưng chung quy cũng xem như phải chăng. Nếu tính thêm miếng ngọc bội Lão Long kia, Phù Nam Hoa ta dám nói Tống lão đệ ngươi đã lãi to rồi.”
Nói xong mấy “lời tâm huyết” này, Phù Nam Hoa lại im lặng chờ câu trả lời.
Tống Tập Tân im lặng một lúc mới chớp mắt vài cái, đoạn hỏi: “Hết rồi à?”
Phù Nam Hoa cười khổ đáp: “Hết rồi.”
Thiếu niên bỗng trở mặt, hai tay vỗ mạnh xuống bàn: “Tên họ Phù kia, ngươi cút con mẹ nó đi! Ngươi nghĩ ta là trẻ lên ba chắc?! Trước khi các ngươi vào tiểu trấn thì đã có ba phần tiền, một phần thì bỏ ra để mua đường. Sau này, mỗi khi nhận được một phần bảo bối, dù lớn hay nhỏ thì theo lý vẫn phải đưa một túi. Mỗi túi tiền, nhiều thì ba mươi đồng, ít thì cũng hai mươi. Nhưng cái túi tiền xẹp lép này của ngươi có nổi hai mươi đồng không?! Đã tính chuyện mua bán mà chút thành tín đó cũng không có, thế mà còn dám đổi cơ duyên từ tay ông đây à?”
Tần suất nhịp tay của Phù Nam Hoa lại nhanh hơn, từng cái từng cái gõ lên mặt bàn.
Lồng ngực của Tống Tập Tân run lên, bỗng nhiên cảm thấy khó thở, mặt mày thì đỏ gay, hốc mắt cũng vằn tơ máu. Thiếu niên vội giơ một tay lên ôm ngực, nhịp tim đập dồn dập như nổi trống, thình thịch thình thịch giống như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực vậy.
Phù Nam Hoa nhịp tay chậm dần, sắc mặt của thiếu niên cũng đỡ hơn hắn. Thấy vậy, Phù Nam Hoa mới mỉm cười nói: “Nếu lần ra giá đầu tiên không được thì ta sẽ ra giá lần nữa, hai mươi bốn đồng kim tinh cung dưỡng, ngươi có bán chiếc bình Sơn Tiêu này hay không?”
Tống Tập Tân ướt đẫm mồ hôi, lòng thoáng do dự, thấy đối phương toan có động tác, thiếu niên đang muốn nói gì đó để làm dịu tình thế thì vị thiếu thành chủ thành Lão Long đã quen được nịnh nọt kia lại tăng tốc độ gõ tay, hệt như một cơn mưa bóng mây đột nhiên trút xuống.
Tống Tập Tân giơ hai tay ôm ngực, gương mặt anh tuấn cũng nhăn nhó, nhếch môi cười vừa dữ tợn lại đầy tàn nhẫn.
Thiếu chút nữa Phù Nam Hoa đã nhịn không được mà gõ chết con sói con này, chết thì thôi. Nhưng bây giờ đang là lúc quan trọng, đứng sức hấp dẫn của chứng đạo trường sinh, từng bước lên trời vẫn lấn át tâm lý yêu ghét cá nhân. Nên hắn dừng tay lại, tha cho thiếu niên một con đường sống.
Tống Tập Tân há miệng thở dốc, ánh mắt sáng quắc, khàn giọng cười lớn.
Dường như trong mắt thiếu niên không hề có vẻ gì là căm hận, Phù Nam Hoa thì không cảm thấy đâylà chuyện gì đáng để kinh ngạc, con đường tu hành này còn lắm kẻ quái thai hơn, hắn lấy làm khó hiểu: “Ngươi cười cái gì?”
Hô hấp của Tống Tập Tân ngày càng ổn định hơn, hắn run rẩy tựa lưng vào ghế, giơ tay lau đi mồ hôi trên trán, hai mắt sáng ngời: “Ta vừa nghĩ tới chuyện, không bao lâu nữa thì mình cũng có bản lĩnh giết người trong nháy mắt như ngươi là lại vô cùng vui vẻ.”
Phù Nam Hoa cười nhẹ, không hổ là kẻ đồng đạo khiến mình có cảm giác tinh tinh tương tích (2).
Loại người này là dễ làm việc nhất, chỉ cần vị trí của ngươi cao hơn hắn. Nhưng cũng là loại khó làm việc nhất khi ngươi để hắn leo lên đầu mình.
Nhưng thiếu thành chủ thành Lão Long không cho rằng sau khi mình thành công lấy được cơ duyên thì sẽ thua một thiếu niên mãi mà vẫn không được ai đưa ra khỏi tiểu trấn trước năm chín tuổi.
Tống Tập Tân nhìn chiếc bình và túi tiền nhỏ kia, sau khi ngẩng đầu lên thì mới nói: “Phù Nam Hoa, ta có hai điều kiện. Chỉ cần ngươi đồng ý, ngoại trừ việc bán chiếc bình Sơn Tiêu này thì ta sẽ cho ngươi thêm một món đồ cổ không thua gì nó.”
Phù Nam Hoa nén nỗi mừng vui, cố gắng giữ cho giọng điệu của mình vẫn bình tĩnh như thường: “Nói nghe thử xem,”
Tống Tập Tân cũng chẳng rào trước đón sau gì, giọng điệu “lời chẳng kinh người chết chửa thôi (3)”: “Thứ nhất, ta muốn ngươi đưa ta ba túi kim tinh chứ không phải hai túi!”
Phù Nam Hoa đáp ngay, chẳng chút do dự: “Được!”
Tống Tập Tân nhìn chằm chằm vào hai mắt của đối phương.
Phù Nam Hoa cười, nói: “Tin hay không là tùy ngươi. Đồng thời, hôm nay trước khi ta ra khỏi cửa thì ngươi phải lấy thứ có giá hai túi kim tinh đó ra, để ta tự mình đánh giá.”
Tống Tập Tân cũng gật đầu đáp: “Đương nhiên rồi!”
Phù Nam Hoa lại hỏi: “Vậy điều kiện thứ hai là?”
Tống Tập Tân ung dung nói: “Giúp ta giết một người.”
Phù Nam Hoa lắc đầu: “Nếu như ngay cả chuyện một túi tiền có bao nhiêu đồng ngươi cũng biết thì phải hiểu là những kẻ như bọn ta không thể giết người bừa bãi ở nơi này, bằng không sẽ lập tức bị đuổi ra khỏi tiểu trấn. Thậm chí còn có khả năng bị tước đi một phần căn cốt, Thánh Nhân lại dùng thủ đoạn tiên gia để cắt đứt tất cả cơ duyên liên quan, thê thảm khôn xiết, còn liên lụy gia tộc mất hết tất cả cơ duyên ở nơi này.”
Tống Tập Tân nhếch môi: “Ngươi đừng từ chối vội, cứ im lặng theo dõi diễn biến là được, sao hả?”
Phù Nam Hoa cười hỏi: “Ta rất tò mò, ngươi muốn giết ai thế?”
Tống Tập Tân đáp với vẻ nửa thật nửa giả: “Ta cũng đang nghĩ đây.”
Phù Nam Hoa lại cầm chiếc bình kia lên, cảm nhận lớp men trơn nhẵn của nó, thuận miệng đáp: “Thế thì ta đây xin mỏi mắt mong chờ.”
Ở bên kia, thiếu niên bất giác vuốt cổ của mình, sắc mặt vô cùng khó coi.
…
Lúc trước Trĩ Khuê đưa Thái Kim Giản tới bên ngoài cửa viện nhà họ Cố thì xoay gót đi dạo phố. Thái Kim Giản đẩy cửa vào thì như bị sét đánh, đứng im tại chỗ không dám nhúc nhích, mắt nhìn thẳng vào vị lão nhân đang nằm trên ghế dài kia, run rẩy hỏi: “Tiền bối chính là Tiệt Giang Chân Quân tiềm tu tại hồ Thư Giản?”
Lão nhân bèn hỏi: “Sao ngươi lại nhận ra lão phu?”
Thái Kim Giản cung kính đáp: “Vãn bối là Thái Kim Giản của núi Vân Hà, mười năm trước từng theo gia phụ tới hồ Thư Giản xem kỳ cảnh ba ba cõng bia nổi lên mặt nước, may mắn được chiêm ngưỡng phong thái của tiền bối từ xa, đến nay vẫn khó mà quên được.”
Lão nhân gật đầu đáp: “Ta biết rồi.”
Thái Kim Giản lập tức cảm thấy trong lòng nằng trĩu: “Chân quân, vãn bối đến đây là muốn…”
Vị tiên sinh kể chuyện được gọi là “Tiệt Giang Chân Quân” kia liếc cô ta một cái, lạnh lùng đáp: “Nể mặt Tùng Hà Lão Tổ, lão phu sẽ không tính toán chuyện ngươi không mời mà tới, lần sau không được làm thế nữa. Ra ngoài xong thì nhớ đóng cửa lại.”
Thái Kim Giản chỉ im lặng một thoáng đã gật đầu đáp: “Vãn bối xin được cáo lui trước.”
Cô ta thật sự rời đi, hơn nữa còn không quên ngoan ngoãn đóng cửa lại, động tác vừa nhẹ nhàng lại cẩn thận.
Người phụ nữ ngồi trong nội viện nhìn ra ngoài cửa, lo lắng hỏi: “Tiên trưởng, hình như cô ta vẫn chưa từ bỏ ý đồ, liệu có phiền toái gì hay không?”
Lão nhân có được tôn hiệu “Chân Quân” cười khẩy: “Vào tiểu trấn rồi thì hít một hơi hay đánh quả rắm cũng có thể rước lấy phiền toái, chẳng lẽ lại vì vậy mà từ bỏ cơ duyên à?”
Người phụ nữ kia không thể phản bác được.
Lão nhân mỉm cười: “Ta hỏi ngươi một câu. Cố thị, nếu như ngươi có thể lựa chọn thì muốn để Cố Sán tới núi Vân Hà tu hành, hay là theo ta về hồ Thư Giản?”
“Đừng trả lời vội.”
Lão nhân khoát tay, ý bảo bà ta không cần tỏ thái độ vội, sau đó lại ung dung nói: “Núi Vân hà là sơn môn nhị lưu nằm hàng kế chót của Đông Bảo Bình châu ta. Nhưng nếu ngươi cảm thấy núi Vân Hà chẳng là gì cả thì xem như lầm to. Đá Vân Căn sinh ra ở đó chính là thiên tài địa bảo thật sự. Đừng nói là Đông Bảo Bình châu, khắp thiên hạ này cũng chỉ có một mình nó. Nên địa vị của núi Vân Hà không hề thấp, mọi người đều chấp nhận kính nó ba phần. Nhất là tông môn đạo quan phái Đan Đỉnh của Đạo gia, lại cùng núi Vân Hà hương khói nối dài, có quan hệ thâm sâu. Mà lão phu đây, chẳng qua chỉ là một trong những tu sĩ của hồ Thư Giản, chỉ chiếm được một hòn đảo ở giữa hồ, đệ tử thì đếm trên đầu ngón tay, nô bộc chưa đến trăm tên.”
Người phụ nữ kia thản nhiên mỉm cười, dù đã luống tuổi nhưng phong vận vẫn còn: “Chênh lệch giữa ta và cô gái núi Vân Hà kia chính là chênh lệch giữa cô ta và tiên trưởng ngài. Sao ta có thể để Cố Sán có động thiên phúc địa mà không ở, lại đi kiếm cơm nơi ruộng vườn như cô ta được?”
Lão nhân cười lớn, đột nhiên nhớ đến một chuyện, bèn trầm giọng nói: “Thiếu niên kia thân thế ra sao? Cố thị, ngươi mau nói rõ để đề phòng vạn nhất.”
Phụ nhân ngẩn ra, vén sợi tóc mai rồi mới thấp giọng báo: “Thằng bé đáng thương kia tên Trần Bình An, cha mẹ đều là người trong tiểu trấn. Mẹ nó khá thân với ta, bộ dạng tuy bình thường, nhưng lại là người hiền lành tốt bụng. Hình như ta chưa từng thấy cô ấy gây gỗ với ai. Tướng mạo của chồng cô ấy thì lại xấu xí, thật không xứng với cô ấy chút nào, nhưng tay nghề làm gốm lại không tệ. Nếu như không phải do mất sớm, không chừng cố gắng thêm hài chục năm là có thể lên làm thợ chính của lò gốm ngự ở đây. Còn chuyện chết như thế nào thì là vào một đêm mưa lớn, ông ta sợ lửa lò bị tắt nên vội chạy qua xem, nào ngờ sẩy chân ngã xuống suối. Cũng có người nói là đi đốt than củi, ham chút tiền trinh nên đi vào đỉnh núi nơi triều đình đóng quân, bị dã thú kéo vào rừng sâu núi thẳm. Nói chung là không tìm được thi thể. Người đó cứ như hũ nút, đánh mấy gậy cũng chẳng xì một hơi, nhưng lại thương yêu con cái. Mỗi lần về nhà đều tiện tay mang theo vài món đồ chơi nho nhỏ như trống bỏi, kẹo bồ tát, mảnh gốm vỡ. Nói chung, trước khi ông ta mất thì một nhà ba người cũng xem như yên ổn.”
“Sau khi cha của Trần Bình An qua đời thì mẹ nó mới âu sầu sinh bệnh, thân thể vốn chẳng khỏe mạnh gì, nói bệnh là bệnh. Không tới một năm đã gầy chỉ còn da bọc xương, hàng xóm như bọn ta ai thấy cũng phải giật mình, hoàn toàn không nhận ra đó là cô gái xinh xắn ưa cười trước đây. Lúc đó cũng là do thằng bé Trần Bình An kia chăm sóc mẹ nó, thằng bé mới bao lớn mà đã phải mua thuốc sắc thuốc, nấu cơm xào rau, lo liệu mọi chuyện trong nhà. Lúc đó thằng bé còn nhỏ con, nấu cơm cứ phải bắc ghế mà đứng. Còn nữa, nó vì tiết kiệm tiền mua thuốc cho mẹ mà mò lên núi tìm mấy loại thảo dược dễ gặp, hái được nhiều thì mang về bán cho hiệu thuốc.”
“Hình như có lần ăn nhầm loại thảo dược gì đó, lúc vác gùi về tới ngõ Nê Bình thì thằng bé đột nhiên ngã lăn ra đất, miệng sùi bọt mép. Bọn ta đều sợ tới mức cho rằng một nhà ba người bọn họ sẽ mất như vậy. Lúc đó mẹ chồng của ta hãy còn sống, bà còn nói cả nhà bọn họ chết hết cũng tốt, đỡ phải để lại ai sống cô đơn chịu khổ. Cùng nhau xuống suối vàng thì còn có thể đoàn viên. Sau này không biết thế nào mà thằng bé kia bỗng khỏe lại, vượt qua được cơn bạo bệnh đó. Nhưng mẹ của nó vẫn không thể sống qua mùa đông đó. À đúng rồi, tiên trưởng, thằng bé Trần Bình An kia sinh mùng năm tháng năm. Người già trong ngõ này trước kia đều nói đó là ngày xui xẻo nhất trong năm, dễ thu hút mấy thứ dơ bẩn, lại còn liên lụy tới người nhà. Nên sau khi cha mẹ của đứa bé kia qua đời thì trong nhà không còn nửa xu, thậm chí nó còn mang hết mấy món đồ chơi mà cha tặng đi đổi thức ăn với đám bạn cùng trang lứa khắp trấn…”
Bà ta nói đến đây, lão nhân cuối cùng cũng lên tiếng: “Mùng năm tháng năm? Thú vị lắm, để ta tính xem.”
Năm ngón tay bấm quyết, tay áo có càn khôn.
Thấy người phụ nữ kia ngẩn ra, lão nhân lại cười nói: “Ngươi cứ nói tiếp đi.”
Bà ta vội dạ một tiếng: “Vì nghĩ tình chòm xóm bao năm, tuy mấy người sống trong ngõ Nê Bình bọn ta đều không dám đón Trần Bình An về nhà mình, nhưng thỉnh thoảng cũng tiếp tế cho nó. Đưa vài bát cơm hay thức ăn qua thì vẫn được. Trong lòng ai cũng là thịt, nói thật, nếu như không phải ngày sinh của đứa bé kia khiến cho người ta sợ hãi thì ai mà chẳng thương xót cho thằng bé ngoan hiền như thế. Đương nhiên, kể ra thì trong số xóm giềng cũng có kẻ xấu bụng, không thích người ta sống tốt nên hay cố ý ức hiếp thằng bé, làm nó cuối cùng đành phải vào lò gốm làm công. Phải biết là khi mẹ thằng bé sắp lâm chung đã bắt nó hứa, dù sau này có làm ăn mày cũng không được phép tới lò gốm làm việc. Đứa trẻ hiếu thuận nghe lời như Trần Bình An, có thể khiến nó vi phạm lời thề như thế nhất định không phải chuyện thường.”
Lão nhân lại hỏi: “Ngươi có biết họ tên và ngày sinh tháng đẻ của cha mẹ nó không?”
Bà ta bèn nói chỉ biết họ tên chứ không rành ngày sinh tháng đẻ. Lão nhân cũng chẳng lấy làm phật ý, một lúc sau mới cười lạnh nói: “Chút tài mọn, đúng là giở trò nham hiểm!”
Người phụ nữ chẳng hiểu ra sao.
Lão nhân mới giải thích: “Người đàn ông kia đúng là chết oan, hơn phân nửa là do vô tình biết được bí mật của tiểu trấn. Tiếc là không được may mắn, phúc đúc tổ tiên để lại cũng không được nhiều như nhà các ngươi. Cuối cùng vì an nguy của con trai mình nên người đàn ông kia đã lén đập vỡ chiếc bình sứ bản mệnh đó. Khiến cho tông môn nào đó bên ngoài tiểu trấn vớ hụt, đây là vụ đầu tư lớn, một thợ gốm nho nhỏ như thế làm sao đền nổi, đành phải lấy mạng ra mà đền. Một mạng không đủ thì thêm cả vợ của hắn. Nói ra cũng buồn cười, đại khái là cái chết của người thợ gốm đó chẳng có ý nghĩa gì với những người khác, bọn họ thật sự chẳng muốn phí sức làm gì, nên mới dùng thuật pháp che giấu qua loa mà thôi.”
Sắc mặt của người phụ nữ kia bỗng ủ rũ.
Lão nhân nhìn thấu tâm tư bà ta, bèn cười hỏi: “Sao hả, thấy hổ thẹn nên đổi ý à?”
Bà ta cười khổ: “Đúng là có hổ thẹn, dẫu sao thằng bé cũng lớn lên trước mắt ta. Nhưng nếu nói đổi ý thì tuyệt đối không có!”
Lão nhân gật đầu: “Đã thấy.”
Bà ta lại tự nhủ: “Nếu như đổi lại là mẹ của Trần Bình An ở vị trí của ta bây giờ thì ta tin rằng cô ấy cũng sẽ làm như vậy.”
Lão nhân lắc đầu: “Thế thì chưa chắc.”
Bà ta không khỏi cao giọng: “Chắc chắn cô ấy sẽ làm vậy!”
Lão nhân cũng không tức giận vì hành vi vô lễ của bà ta, chỉ buông lời cảm khái: “Thương thay tấm lòng cha mẹ trong thiên hạ.”
…
Thiếu niên giày rơm ngồi ngay bậc cửa: “Ninh cô nương, ta có thể hỏi cô một chuyện được không?”
Thiếu nữ áo đen tựa lưng vào tường, hai chân xếp bằng, thanh đao vỏ xanh đặt trước gối: “Đương nhiên. Nhưng nếu là chuyện liên quan đến bí mật hoặc riêng tư thì ta sẽ không trả lời đâu.”
Trần Bình An hỏi: “Các người tới đây, bình thường sẽ ở lại bao lâu mới đi?”
Thiếu nữ nhíu mày: “Cái này thì không cố định, có người may mắn thì trong ngày đã rời đi. Có người không được may mắn thì sẽ chôn chân ở đây cả đời. Nếu như nhất định phải cho ra một lời suy đoán thì cũng được, nhưng chưa chắc đã đúng. Ngươi tự nhìn đi, ví như nhóm bọn ta lần này, một chuyến có tám người thì có một nửa là nhà giàu, vừa ngốc lại thừa tiền. Bọn họ vừa nhìn đã biết là sẽ không vội vàng, thể nào cũng phải ở lại trong tiểu trấn vài ngày. Vị công tử đội cao quan mang ngọc bội kia chắc là người thuận lợi nhất. Lại có một tên ngốc cứ dồn hết tâm tư đối phó với cái giếng kia, có làm được hay không thì phải xem ý trời.”
Trần Bình An lại hỏi tiếp: “Còn một người nữa thì sao?”
“Ai?”
“Là cô gái trẻ tuổi, người dong dỏng cao ấy.”
“Ngươi thích cô ta à?”
Trần Bình An ngồi ở bậc cửa mỉm cười, căn bản không cho là thật.
Thiếu nữ áo đen cũng cảm thấy câu đùa của mình không buồn cười, bèn nghiêm mặt: “Thật ra ta đã nghe ngươi và đạo trưởng nói chuyện rồi. Ngươi có thù oán với cô ta, nên… muốn báo thù sao?”
Đoạn, cô lại thở dài: “Ta khuyên ngươi một câu, ở trong mắt của đám người trên đỉnh núi kia thì những người ở giữa sườn núi như các ngươi cũng chẳng khác gì người ở dưới chân núi. Không chỉ vì người ta mắt cao hơn đầu, mà bởi vì họ thật sự có tư cách xem thường các ngươi. Sau khi tới nơi mạt pháp này, không chỉ cô gái núi Vân Hà kia, ngay cả một đấm của thằng bé mặc áo đỏ kia cũng có thể khiến ngươi nôn ra cả chậu máu. Nhưng ngươi dốc sức đấm hắn một cú, dù không dám nói là gãi ngứa, nhưng tối đa chỉ khiến hắn cảm thấy nghẹt thở một chút, tuyệt đối không bị thương đến tạng phủ. Còn nguyên nhân ấy à, khó mà nói rõ lắm, chủ yếu là do ta không giỏi giải thích cho lắm.”
Trần Bình An đưa lưng về phía trong phòng, nhìn về phía cửa viện mà rằng: “Ta chỉ muốn biết tại sao cô ấy lại muốn giết ta, rõ ràng bọn ta chỉ mới gặp nhau lần đầu mà.”
Thiếu nữ suy nghĩ một lúc mới lên tiếng: “Cô ấy chưa chắc đã là người hay lạm sát kẻ vô tội. Nói sao nhỉ, trên con đường tu hành phải trèo đèo lội suối, chịu bao khó khăn. Có đường Dương Quan (4), có cầu độc mộc, đi nhanh quá, bất cẩn giết một con kiến hôi. Đói bụng bắt vài con cá từ Trường Giang hay Hoàng Hà. Đạo pháp có chút thành tựu, thuận tay thi triển, ngộ sát chim muông rắn rết, đều có khả năng cả. Ta nói không được hay cho lắm, ngươi có hiểu ý của ta không?”
Trần Bình An ừ một tiếng rồi đáp: “Cũng hiểu đại khái rồi.”
Sau đó thiếu niên lại lặng lẽ nhìn ra sân.
Thật ra hắn chẳng hiểu gì cả, cũng không rõ tại sao những người kia lại xem thường tính mạng của kẻ khác như thế.
Hồi lâu sau, Trần Bình An mới quay đầu lại cười nói: “Nếu cô nương không chê thì cứ ở lại đây. Cần gì thì cứ việc nói.”
“Vậy còn ngươi?”
“Ta có quen một người, mấy hôm nay ta sẽ tới bên đó ở. Cô không cần lo đâu, hắn tên là Lưu Tiễn Dương, là… bạn của ta, bạn thân lắm!”
Thiếu nữ nhìn bóng lưng gầy yếu ở bậc cửa, mỉm cười nói: “Cảm ơn!”
Thiếu niên toét miệng cười, chỉ gãi đầu chứ không nói mấy câu khách sáo nữa. Hắn do dự một lúc, cuối cùng cũng gom hết can đảm, quay đầu nói thêm: “Ninh cô nương, nếu như có một ngày ta không về được nữa thì cô hãy giao túi tiền đồng màu vàng kia của ta cho Lưu Tiễn Dương, nhờ hắn sau này coi sóc ngôi nhà này giúp ta. Cũng không cần quét dọn gì đâu, lâu lâu sửa sang lại một chút, thay lớp ngói mới, đừng để nó bị dột là được. Cũng đừng để tường bị sập hay cửa mục nát quá. Đến 30 tháng chạp mà dán thêm đôi câu đối xuân với môn thần lên cửa thì tốt quá! Nếu cảm thấy phiền quá thì khỏi làm cũng không sao.”
Thiếu nữ thấy rõ, khi Trần Bình An nói đến môn thần và câu đối xuân thì ánh mắt lại sáng rực lên đến lạ.
Rõ ràng cậu bé mồ côi trong ngõ Nê Bình này đã mong chờ đến tết trên cửa sẽ có thêm môn thần, hai bên được dán chữ xuân lâu lắm rồi.
Cha mẹ mất bao lâu thì hắn cũng mong chờ bấy lâu.
Nên khi thiếu niên chẳng hề có chút vướng bận hay khúc mắc gì thở hắt ra một hơi, phủi gối đứng dậy. Thanh phi kiếm nằm trong vỏ được đặt trên bàn bỗng nhiên phát ra tiếng ngâm.
(1) Hai câu thơ của Lý Bạch. Kim tinh phiếm tây phương chi khí, Thái Bạch, một loại tiên dược trong truyền thuyết Đạo giáo hoặc ánh trăng.
(2) Ý chỉ những người có tính cách, chí thú, cảnh ngộ giống nhau thì dễ sinh lòng thân thiết.
(3) Vi nhân tính tịch đam giai cú
Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu (Thơ Đỗ Phủ)
(4) Ý chỉ con đường Dương Quan đi Tây Vực – nay thuộc phía Tây Nam huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, về sau được ví như tiền đồ xán lạn thênh thang.
—-
Mình đang có ý định xin gắn thông tin donate cho bộ này, nếu được thì sẽ đảm bảo mỗi ngày 1 chương. Do truyện vừa dài vừa khó dịch, nên mong mọi người ủng hộ cho bạn dịch dỏm nghèo có thêm động lực nha ~