Kiếm Lai

Chương 15: Áp đảo


Khi thiếu niên ra khỏi ngõ Nê Bình thì đúng lúc chạm mặt tỳ nữ Trĩ Khuê của Tống Tập Tân. Sau khi dẫn cô gái cao gầy sang nhà Cố Sán, cô nàng không về nhà ngay mà đi đường tắt tới hẻm Hạnh Hoa dạo quanh các cửa hàng. Mặc dù cô chẳng mua sắm gì, nhưng tâm trạng vẫn vô cùng vui vẻ, còn vừa đi vừa nhảy chân sáo rất thích chí.
Cô thiếu nữ sinh ra và lớn lên ở chốn thôn quê tựa như một bụi cỏ thơm, khác hẳn với các cô tiểu thư khuê các suốt ngày ru rú nơi nhà cao cửa rộng.
Sau khi nhìn thấy thiếu niên giày rơm, cô không cúi mặt lách đi thật nhanh như xưa nữa mà dừng lại trước mặt người hàng xóm hiếm khi bắt chuyện, cứ ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi.
Trần Bình An mỉm cười chào cô, chạy lướt qua rồi rảo bước nhanh hơn.
Trĩ Khuê đứng ở đầu ngõ Nê Bình, lặng lẽ ngoái đầu nhìn lại. Thiếu niên nghèo đang sải bước chạy nhanh dưới ánh dương giống hệt như một con mèo hoang ngoan cường, tuy phải lê tấm thân tàn tạ lang thang khắp nơi, nhưng hình như cũng sẽ không bao giờ chết đói.
Người trong tiểu trấn không thích thiếu nữ, lại bởi cô là nha hoàn của tên Tống Tập Tân tính tình lập dị, nên cho dù cô tới giếng xách nước, đi chợ mua đồ, hay đi mua thêm giấy mực cho chủ nhân đều mang tới cảm giác không hòa đồng cho người khác. Cô cũng chẳng có bạn chơi cùng, gặp người quen thì cũng ít khi nói nhiều. Đối với người dân vốn thích buôn chuyện trong tiểu trấn thì người như cô quả khó mà thân thiết được.
Ở mặt này, Trần Bình An và Trĩ Khuê khá giống nhau, điểm khác biệt chính là tuy thiếu niên cũng kiệm lời nhưng tính tình lại không khiến kẻ khác thấy khó ưa. Hắn bẩm sinh đã hòa đồng thân thiện, chưa bao giờ biết lành hanh, hơn thua với đời. Chẳng qua bởi cảnh nhà sa sút, lại phải đi làm công ở lò gốm từ nhỏ để nuôi thân, nên hắn với xóm giềng chẳng mấy thân thiết. Mà những người hàng xóm trong ngõ Nê Bình luôn có một cảm giác kiêng dè khó nói đối với ngày sinh của thiếu niên. Mùng 5 tháng 5 (1) theo quan niệm của người trong trấn chính là ngày “Ác”, ngũ độc ắt tới. Thiếu niên lại sinh đúng ngày này, cộng với việc cha mẹ hắn lần lượt qua đời từ sớm, Trần Bình An cũng trở thành độc đinh, nên tự nhiên sẽ nghĩ này nghĩ nọ. Mấy ông già bà cả hay tụ tập buôn chuyện ở gốc cây hòe lại càng không ưa cậu thiếu niên trong ngõ Nê Bình đó, cứ luôn miệng dặn dò đám trẻ con trong nhà không được chơi với hắn. Nhưng mỗi khi đám trẻ con phụng phịu hỏi tại sao thì họ lại chẳng thể nói rõ nguyên do.
Đúng lúc này, một bóng người cao gầy đi ra khỏi ngõ, tới đứng cạnh tỳ nữ. Trĩ Khuê quay lại, không nói gì mà chỉ lẳng lặng đi tiếp. Người nọ cũng quay người kề vai bước cùng cô đi vào ngõ Nê Bình. Đây chính là vị tiên sinh Tề Tĩnh Xuân bên trường học, là người có học duy nhất trong tiểu trấn, một môn sinh Nho gia nghiêm túc.
Thiếu nữ điềm nhiên bước tiếp, lạnh mặt nói:
“Hai ta nước sông không phạm nước giếng, thế chẳng tốt à? Hơn nữa tiên sinh đừng quên, lúc trước là do ngươi chiếm được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Một tỳ nữ nho nhỏ như ta đương nhiên chỉ có thể cố nhịn. Nhưng hình như gần đây đạo tràng pháp mạch cách nơi đây mấy nghìn vạn dặm của tiên sinh đã có chuyện gì đó đúng không? Nên bây giờ tiên sinh chỉ là nước giếng, còn ta mới là nước sông!”
Vị Tề tiên sinh kia mỉm cười đáp:
“Vương Chu, mà thôi, nhập gia tùy tục. Ta gọi ngươi là Trĩ Khuê vậy. Trĩ Khuê, ngươi có nghĩ tới chuyện tuy ngươi được trời đất ưu ái, ứng vận chào đời, nhưng ngươi cho rằng ta không có cách nào áp chế được ngươi ư? Chẳng lẽ ngươi cho rằng mấy nghìn năm trước, bốn vị Thánh Nhân như thần long thấy đầu chẳng thấy đuôi cùng nhau tới đây, tự mình lập ra quy định chỉ là nói suông chứ không để lại bất kỳ thủ đoạn nào sao? Suy cho cùng, ngươi cũng chỉ là ếch đáy nồi tưởng thế giới bằng vung mà thôi.”
Thiếu nữ nhíu mày đáp:
“Tề tiên sinh, ngươi đừng mạnh miệng dọa nạt ta. Ta không phải thiếu gia Tống Tập Tân nhà ta. Ta không có hứng thú, cũng chưa bao giờ tin vào mớ lý do thoái thác nghe có vẻ đường hoàng mà người đưa ra. Nếu tiên sinh không ngại thì cứ nói thẳng ra, đánh nhau hay chia tay hòa bình ta đều chấp nhận.”
Nho sĩ trung niên ung dung nói:
“Ta khuyên ngươi một câu, sau khi thoát khỏi cái lồng chim này thì đừng có được đằng chân lân đằng đầu, chỉ biết cái lợi ở trước mắt thì sẽ không tốt cho ai cả. Nhất là sau khi ngươi và hắn cùng nhau bước lên con đường tu hành, dù có kết làm đạo lữ hay không thì cũng nên giảm bớt nhuệ khí, chớ bướng bỉnh làm càn. Đây không phải uy hiếp mà vài lời tâm huyết trước giờ ly biệt, xem như thiện chí nhắc nhở của ta.
Theo lý, thân phận của hai người khác nhau một trời một vực, ấy vậy mà cô tỳ nữ Trĩ Khuê này lại không kiêu không nịnh, thậm chí khí thế còn ẩn ẩn áp đảo nho sĩ. Cô cười khẩy nói:
“Thiện chí? Suốt mấy nghìn năm qua, đám người tu hành khốn kiếp các ngươi thân ở nơi cao nhưng lại vạch đất thành lao tù, coi đây như một thửa ruộng. Năm nay cắt một cây, sang năm gặt một bó, hết năm này qua năm khác, kéo dài cả nghìn năm không thay đổi. Giờ các người lại muốn cùng kẻ nghiệp chướng như ta ‘hành thiện giúp người’ à, ha ha. Ta từng nghe thiếu gia nói một câu mà đa số các ngươi đều xem như chuẩn mực là không cùng một tộc, ắt chẳng đồng lòng, đúng không? Cho nên cũng chẳng thể trách được Tề tiên sinh, dù sao…”
Tề tiên sinh tiếp tục đi tới, sải chân bước ra một bước, cười như không cười:
“Hửm?”
Ngay sau đó.
Sắc mặt của tỳ nữ Trĩ Khuê lập tức thay đổi.
Chẳng biết từ lúc nào, xung quanh hai người đã trở thành một vùng tối om đưa tay chẳng thấy năm ngón. Họ chỉ nhìn thấy trên đỉnh đầu phía xa có vô số dải sáng mang theo hơi thở thần thánh đang rơi xuống như mưa.
Thân thể họ như đang ở trong một cái giếng sâu không đáy, những dải sáng vàng óng như mặt trời đang từ từ rơi xuống miệng giếng.
Chiếc áo xanh trên người nho sĩ trung niên lại có từng luồng sáng rực rỡ lóe lên.
Hạo nhiên chi khí, quang minh chính đại.
Khuôn mặt thiếu nữ trở nên dữ tợn, nhưng chẳng mấy chốc đã lấy lại vẻ hờ hững, miệng lí nhí:
“Sáu mươi năm phạm âm Phật môn như sét đánh ngang tai, vang rền chẳng nghỉ. Sáu mươi năm bùa chú Đạo gia như giòi bám trong xương, cắn xé không ngơi. Sáu mươi năm hạo nhiên chính khí, che lấp bầu trời, nơi nào có thể trốn. Sáu mươi năm kiếm khí Binh gia, đất rung núi lở, chẳng chốn an lành. Mỗi giáp là một lần luân hồi, đã ba nghìn năm qua chẳng có lấy một ngày yên bình… Ta muốn biết cái mà các ngươi gọi là gốc rễ đại đạo rốt cuộc đang ở đâu. Giấy trắng mực đen trong sách của tiên sinh, lời lẽ sâu xa của tiên sinh lúc truyền đạo dạy nghề. Ta tuy nhìn rõ, nghe kỹ, nhưng lại không thể nắm bắt…”
Cô ngơ ngác nhìn người đàn ông trung niên mình đầy chính khí, vừa là một người thầy dạy chữ vô danh nơi làng quê, cũng là một nhà nho của thư viện Sơn Nhai – Tề Tĩnh Xuân. Là kẻ đọc sách mà ngay cả đám thái giám quyền thế của vương triều Đại Tùy cũng phải tôn xưng một tiếng “Tiên sinh”.
Thiếu nữ bỗng nhoẻn môi cười, đoạn hỏi:
“Tiên sinh sao lại dạy ta, định khuyên ta hướng thiện thế nào? Nếu như ta nhớ không lầm, vị Chí Thánh tiên sư của Nho gia các ngươi, cùng một vị Đạo Tổ đều đã từng nói ‘hữu giáo vô loại (2) đúng không?
Ông ta lắc đầu đáp:
“Với ngươi, cho dù có giảng vạn câu dạy bảo của Thánh nhân cũng vô dụng.”
Thiếu nữ tưởng như bình thản nói chuyện cùng vị nho sĩ này, nhưng thực chất toàn thân lại căng như dây cung. Đôi mắt không ngừng dò xét xung quanh hòng tìm ra dấu vết để phá giải thế cục.
Nho sĩ làm như không thấy việc này, cười lạnh đáp:
“Ta biết thật ra ngươi đang vô cùng tức giận, oán hận và sinh ra cả sát ý. Không phải ta không chấp nhận kẻ khác loài. Nhưng ngươi phải biết rằng ban phát lòng trắc ẩn bừa bãi không phải là giáo lý chân chính của Tam giáo.(3)
“Thiếu gia nhà ta thường dạy, nói đạo lý cùng đám người đọc sách chỉ tổ uổng công.”
Khóe miệng thiếu nữ co giật, nheo đôi mắt với đồng tử kép màu vàng quỷ dị kia rồi nói tiếp:
“Thì ra Tề tiên sinh đang lúc hồi quang phản chiếu, đương nhiên sẽ khó dây vào hơn xưa…”
Ông ta cười gằn:
“Nói đạo lý không thông cũng không sao, chỉ cần một ngày Tề Tĩnh Xuân ta còn sống trên đời này, còn giữ trọng trách trấn thủ nơi đây thì đứa nghiệp chướng vong ơn bội nghĩa như ngươi đừng hòng tác oai tác quái!”
Thiếu nữ đưa ngón tay chỉ vào mình, cười hỏi:
“Ta vong ơn bội nghĩa ư?”
Nho sĩ trung niên tức giận nói:
“Năm đó khi ngươi suy yếu nhất, buộc phải cúi mình, chủ động ký kết khế ước cùng kẻ khác, là ai chẳng nề gió tuyết để cứu ngươi ở ngõ Nê Bình? Bao năm qua, là kẻ nào đã gặm nhấm phần khí số còn sót lại của hắn từng chút một?
Thiếu nữ cười đáp: “Bụng đói thì phải tìm đồ ăn, đây chẳng phải chuyện hiển nhiên à? Hơn nữa hắn vốn dĩ cũng chẳng có cơ duyên gì lớn, sớm chết sớm siêu sinh, nói không chừng kiếp sau vẫn còn chút hy vọng. Nếu cứ để hắn sống vất vưởng ở tiểu trấn này thì đúng là…”
Nho si phất tay áo, quát một tiếng: “Câm miệng!”
Ông ta tức giận nói: “Đại đạo sâu xa, thiên lý sáng soi, há lại vì một lời của ngươi mà chấm dứt?! Đời người đều tự có mệnh số an bài, ngươi có tư cách gì mà chọn thay cho kẻ khác?!”
Trên đỉnh đầu của thiếu nữ bỗng xuất hiện một bàn tay màu vàng phát ra hào quang sáng ngời, khí thế uy nghiêm như Phật Đà một chưởng hàng phục thiên ma, lại như Đạo Tổ một tay trấn áp yêu tà, đè mạnh xuống đầu thiếu nữ, khiến cho cô lập tức quỳ rạp xuống, trán đập mạnh xuống đất.
Tiếng dập đầu vang lên giòn giã.
Hai tay của thiếu nữ chống trên đất, giãy giụa muốn đứng dậy. Cô cúi gằm mặt, mở miệng cười lạnh: “Các người có thể ép ta cúi đầu, nhưng ta tuyệt đối sẽ không nhận sai!”
Bàn tay vàng với oai thế bao la kia kéo đầu thiếu nữ, nhấc lên rồi lại ấn mạnh xuống, để cô dập đầu thêm lần nữa.
Lần này tiếng dập đầu lại vang rền như sấm.
Nho sĩ trầm giọng quát: “Chớ quên! Đường sống này cũng là của các Thánh Nhân ban cho ngươi, chứ không phải chính bản thân ngươi giành được! Nếu không thì đừng nói là trấn áp ngươi ba nghìn năm, ba vạn năm lại có khó gì?!”
Thiếu nữ vẫn luôn bị dí đầu xuống đất khàn giọng đáp trả: “Cái đại đạo chó má của các ngươi, ta quyết không đi!”
Nho sĩ giơ tay lên cao, đột nhiên chộp một cái về phía hư không trước ngực: “Làm càn! Trấn cho ta!”
Giữa kim quang bắn lên từ dưới giếng lại có một con dấu vuông vức, dài rộng hơn một trượng bằng bạch ngọc xuất hiện. Trên con dấu có khắc tám chữ cổ, nhiễm màu đỏ tươi rất đỗi chói mắt cùng với vô số lôi điện màu tím quấn quanh, phát ra tiếng kêu lách tách.
Tề Tĩnh Xuân ra lệnh một tiếng, chẳng khác gì ngôn xuất pháp tùy trong truyền thuyết, con dấu khổng lồ giáng xuống, nện lên lưng thiếu nữ vốn đang quỳ rạp kia.
Trên con dấu này có ẩn chứa uy áp của Thiên Đạo, giống như không phải vật thực, nó không ép cho thiếu nữ nằm rạp xuống mà chỉ mang theo gió sấm nhanh chóng rút xuống đất mất hút, giống như sấm to mưa nhỏ vậy.
Nhưng ngay sau đó, toàn thân thiếu nữ như bị vật nặng nện lên, đánh gãy xương nát thịt, nằm bệt trên đất hệt như một vũng bùn nhão, vô cùng thê thảm.
Dù là vậy thì thiếu nữ vẫn cong năm ngón tay lại, dốc hết sức mình cào móng lên đất như đang viết chữ.
Tề Tĩnh Xuân mặt không biểu tình, lạnh lùng nói: “Ba lần dập đầu, là muốn ngươi lễ bái thiên địa! Thương sinh! Đại đạo!”
Ánh mắt của thiếu nữ đờ đẫn, không hề đáp lời.
Tề Tĩnh Xuân phất tay áo, giải tán uy nghiêm mênh mông khiến người ta hít thở không thông kia: “Tề Tĩnh Xuân ta chẳng qua chỉ là một kẻ hủ nhỏ dưới trướng Thánh Nhân cũng có thể ép ngươi dập đầu ba lượt. Sau khi ra ngoài, ngươi không sợ một khi giở thói hoành hành thì sẽ gặp phải một kẻ khác còn không nói lý hơn cả ngươi, chỉ một ngón tay đã có thể giết chết ngươi ư?”
Tề Tĩnh Xuân lại thở dài: “Ngươi ở nơi này, đúng là bị trấn áp giam cầm, không được tự do. Nhưng ngươi có nghĩ tới chuyện trên đời này làm gì có tự do tuyệt đối. Những lễ nghi do Nho gia chí Thánh ta định ra, không phải là giúp vạn vật trên đời này giành được một loại tự do khác hay sao? Chỉ cần ngươi không làm gì quá quắt, không phạm luật, tuân thủ lễ tiết. Sớm muộn gì chẳng có ngày được thỏa sức đi khắp thiên hạ bao la?”
Thiếu nữ ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm vào nho sĩ trung niên.
Tề Tĩnh Xuân bước tới một bước.
Trời đất trở lại như thường, ông và tỳ nữ Trĩ Khuê đã quay về ngõ Nê Bình với ánh dương ấm áp, gió xuân dịu mát.
Thiếu nữ lảo đảo đứng dậy, gương mặt trắng bệch, nhếch môi để lộ hàm răng trắng hếu: “Lời dạy bảo của tiên sinh hôm nay, nô tỳ đã nhớ rõ.”
Tề Tĩnh Xuân không nói gì nữa, chỉ xoay người rời đi.
Cô bỗng hỏi: “Cho dù ta lấy oán báo ơn với Trần Bình An, nhưng tại sao thân là môn sinh Thánh Nhân tiếng tăm lẫy lừng như tiên sinh đây lại khoanh tay đứng nhìn? Tại sao ngài đối với đệ tử Triệu Diêu và thiếu gia nhà ta thì xem trọng có thừa, nhưng với Trần Bình An có thân thế bình thường lại chẳng đoái hoài chi hết? Thế này chẳng phải thấy đầu tư có lời thì ra sức bồi dưỡng, với loại bình thường chỉ qua loa lấy lệ, không bán được giá tốt lại bỏ mặc không lo như phường con buôn hay sao?”
Tề Tĩnh Xuân mỉm cười: “Thiên hành kiện, quân tử phải không ngừng vươn lên (4).”
Thiếu nữ sững người.
Khi thân ảnh của nho sĩ trung niên biến mất ở cuối ngõ, thiếu nữ lập tức tỏ vẻ xem thường, phi một tiếng đầy khinh miệt.
Cô tập tễnh quay về viện nhà mình, khi đi ngang qua nhà của Trần Bình An thì chợt chun mũi nhíu mày, cảm thấy mơ hồ. Chỉ vì đạo hạnh của con mọt sách chết tiệt kia tan vỡ mà khắp tiểu trấn nơi đâu cũng có thiên cơ xuất hiện, giống như một chiếc thuyền bị thủng khắp nơi. Thân cô còn lo chưa xong, càng phải tính toán kỹ càng cho tương lai của mình, chẳng muốn so đo gì car.
Khi cô đẩy cửa viện ra, một con rắn mối xấu xí không biết chui ra từ đâu, bò nhanh tới bên chân cô, lại bị cô tức tối hất chân đá bay.

Trong phòng của Trần Bình An, đạo nhân trẻ tuổi ngồi ngay ngắn bên cạnh bàn, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tâm.
Thiếu nữ áo đen mới ban nãy còn giống hệt người chết nay đã có thể tự chống người ngồi dậy. Cô cũng không đội nón lên nữa mà trưng gương mặt khiến cho người ta khó quên kia ra.
Cũng không phải thiếu nữ khuynh quốc khuynh thành cỡ nào, chỉ là đường nét hiên ngang kia đã khiến cho người khác gần như quên đi dung mạo của cô.
Thiếu nữ có hai hàng chân mày sắc như đao chứ không cong cong hình lá liễu như thường thấy.
Khi cô dùng ánh mắt dò xét để nhìn đạo nhân trẻ tuổi thì lại khiến hắn bồn chồn không yên, rõ ràng mình không hề làm chuyện bậy bạ gì, nhưng vẫn cứ thấy chột dạ đến lạ.
Đạo nhân trẻ tuổi ho khan một tiếng, vội thanh minh cho bản thân: “Cô nương, ta xin nói trước. Người thì đúng là do bần đạo cứu, nhưng cõng cô vào phòng, cởi nón ra và rửa mặt này nọ cho cô đều là người khác làm. Hắn tên Trần Bình An, là chủ của căn nhà tranh này. Đó là một thiếu niên cùng khổ đen đủi, cha mẹ đều đã qua đời. Hắn từng làm công ở lò gốm, còn xin một lá bùa ở chỗ bần đạo. Nói chung chính là như vậy đấy, nếu cô nương còn gì muốn hỏi thì bần đạo nhất định sẽ biết gì nói đó, quyết không giấu giếm.”
Thiếu niên giày rơm đã bị bán rẻ không thương tiếc.
Thiếu nữ gật đầu, không hề thẹn quá hóa giận, mà chỉ chân thành nói một câu: “Cảm tạ ơn cứu mạng của đạo trưởng.”
Đạo nhân trẻ tuổi lại càng bồn chồn hơn, chỉ cười khan nói: “Không có chi, không có chi. Chỉ là tiện tay mà thôi, cô nương không sao là tốt rồi.”
Thiếu nữ áo đen lại hỏi: “Đạo trưởng không phải người của Đông Bảo Bình châu?”
Đạo nhân trẻ tuổi hỏi ngược lại: “Cô nương cũng vậy đúng không?”
Cô chỉ ừ một tiếng.
Đạo nhân cũng ừ theo.
Đạo nhân trẻ tuổi cười nói: “Bần đạo họ Lục tên Trầm, không có đạo hiệu. Bình thường cứ gọi Lục đạo nhân là được.”
Thiếu nữ gật đầu một cái, liếc mắt nhìn đạo quan của đạo nhân trẻ tuổi.
Đạo nhân trẻ tuổi do dự một lúc, sau cùng mới bạo gan nói: “Mặc dù thiếu niên kia có làm vài chuyện không hợp lễ tiết, nhưng chuyện gấp đành phài tùng quyền. Lại thêm bần đạo không ngờ cô nương lại khỏi nhanh như vậy, nên đã có điều mạo phạm, mong cô nương đừng nên trách tội.”
Thiếu nữ bèn cười đáp: “Lục đạo trưởng, ta không phải người không nói lý lẽ.”
Đạo nhân trẻ tuổi cười hùa theo: “Vậy thì tốt rồi, vậy thì tốt rồi.”
Thiếu nữ thốt nhiên nhíu mày, nụ cười trên mặt đạo nhân trẻ tuổi cũng cứng ngắc theo.
Cô nhìn xung quanh, ánh mắt vô cùng bình thản, thuận miệng nói: “Ta nghe nói đại sư đúc kiếm hàng đầu châu này là Nguyễn sư định mở lò đúc kiếm ở đây, nên mới lên đường tìm tới, mong ông ta có thể đúc một thanh kiếm cho ta.”
Đạo nhân trẻ tuổi cảm khái: “Nếu thật là ông ta, muốn ông ta tự mình đúc kiếm quả thật không dễ dàng chút nào.”
Thiếu nữ áo đen cũng buồn phiền không thôi: “Đúng là rất khó.”
Lúc này, thiếu niên tay trái xách một xấp gói thuốc, tay phải cầm một túi nhỏ đi về. Hắn gõ cửa phòng lấy lệ trước rồi mới bước vào. Sau khi đặt thuốc lên bàn thì nói nhỏ: “Đạo trưởng, ngươi nhìn thử xem có bốc sai không, nếu không đúng thì ta sẽ đi đổi lại ngay.”
Thiếu niên cứ cầm túi nhỏ kia, xoay người nhìn về phía thiếu nữ.
Thiếu nữ áo đen đang khoanh chân ngồi trên giường lập tức chạm mặt với thiếu niên giày rơm.
Cô bình tĩnh nói: “Xin chào, cha ta họ Ninh, mẹ ta họ Diêu, nên tên của ta là Ninh Diêu.”
Thiếu niên giày rơm vô thức nói theo: “Xin chào, cha ta họ Trần, mẹ ta cũng họ Trần, nên…”
Thiếu niên thoáng ngượng ngùng, nhưng ngay sau đó lại thản nhiên cười nói: “Ta tên Trần Bình An!”
(1): Theo quan niệm của người phương bắc Trung Quốc xưa, mặt trời là ngọn nguồn của vạn độc trên đời. Tháng năm là tháng nắng nóng, hỏa khí bốc cao, các thể loại điềm xấu và ngũ độc (năm con vật cực độc) đều nảy nở vào tháng này. Nên gọi đây là Ác Nguyệt. Trong Ác Nguyệt, ngày xấu nhất chính là ngày năm tháng năm, được gọi là Ác Nhật. Trẻ con mà sinh vào ngày này thì sẽ mang đến tai họa cho gia đình, khắc chết cha mẹ.
(2) Câu nói của Khổng Tử, ý nói dạy tuốt, dạy ráo, chỉ cần chịu học sẽ dạy.
(3) Thiên, Địa, Nhân gọi chung là Tam giáo.
(4) Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức: Nghĩa là vũ trụ vận chuyển không ngừng, con người phải noi theo trời đất, không ngừng vươn lên


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.