Chương 23
Đúng mười ngày sau, bố Will lái xe thả chúng tôi xuống sân bay Gatwick, Nathan chất hành lý lên xe đẩy, còn tôi kiểm tra liên tục xem Will có thoải mái không – tới mức đến anh cũng phải bực mình.
“Mọi người chăm sóc bản thân nhé. Đi chơi vui vẻ,” ông Traynor nói, đặt tay lên vai Will. “Đừng có quậy phá quá đấy.” Ông nháy mắt với tôi khi nói câu ấy.
Bà Traynor không thể nghỉ việc để tới cùng. Tôi ngờ rằng thật ra bà không muốn ngồi suốt hai tiếng đồng hồ trên xe cùng chồng.
Will gật đầu nhưng không nói gì. Anh đã im lặng suốt lúc đi trên xe, nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ với cái nhìn vô định cố hữu, không để ý tới Nathan và tôi chuyện trò miên man về giao thông và về những thứ chúng tôi phát hiện ra mình đã bỏ quên.
Ngay cả khi đang đi giữa phi trường, tôi vẫn không chắc chúng tôi đang làm một việc đúng đắn hay không. Bà Traynor không hề muốn anh đi. Nhưng từ hôm anh đồng ý với kế hoạch chỉnh sửa của tôi, tôi biết bà e ngại phải nói với anh là anh không nên đi. Đúng hơn, suốt cả tuần qua bà e ngại phải nói chuyện với chúng tôi. Bà lặng lẽ ngồi bên Will, chỉ nói về vấn đề thuốc thang. Hoặc loay hoay mua việc ngoài vườn, cắt tỉa cây cối với năng suất đáng sợ.
“Hãng hàng không sẽ tới đón chúng ta. Họ sẽ tới đón chúng ta,” tôi nói khi chúng tôi di chuyển tới quầy check-in, lật tới lật lui tập giấy tờ.
“Bình tĩnh nào. Họ không tới đón khách ở cửa đâu,” Nathan nói.
“Nhưng chiếc xe lăn phải vận chuyển dưới dạng ‘thiết bị y tế dễ vỡ’. Tôi đã kiểm tra thông tin với cô trực điện thoại ba lần rồi. Và chúng ta cần phải đảm bảo rằng họ sẽ không làm rối tung thiết bị y tế vận chuyển trên máy bay của Will.”
Cộng đồng người bị liệt tứ chi trên mạng đã cung cấp cho tôi hàng loạt thông tin, lời cảnh báo, quyền lợi hợp pháp và danh sách những việc cần làm. Sau đó tôi kiểm tra ba lần với hãng hàng không rằng chúng tôi sẽ được nhận những ghế trong khoang có vách ngăn, và Will sẽ được lên máy bay đầu tiên, không chuyển anh khỏi xe lăn điện trước khi chúng tôi tới tận cửa máy bay. Nathan sẽ lưu lại dưới đất, rút cần điều khiển để chuyển sang chế độ đẩy tay, rồi cẩn thận buộc và chèn lót cho xe lăn nhằm bảo vệ bàn đạp. Ông sẽ trực tiếp giám sát người ta đưa xe lên máy bay để tránh bị hư hỏng. Chiếc xe sẽ được dán nhãn hồng để cảnh báo với những người xếp đồ đó là thứ cực kỳ dễ hỏng. Chúng tôi đã được cấp ba ghế cùng hàng để Nathan có thể trợ giúp y tế ngay khi Will cần mà không ai bị tọc mạch. Hãng bay đảm bảo với chúng tôi rằng tay ghế đã được nâng lên để chúng tôi không làm trầy hông Will trong khi chuyển anh từ xe lăn sang ghế. Chúng tôi sẽ giữ anh ngồi giữa trong suốt hành trình. Và chúng tôi sẽ được phép xuống máy bay đầu tiên.
Tất cả những thứ này nằm trong danh sách “việc cần kiểm tra với máy bay” của tôi. Danh sách đó nằm trước danh sách “việc cần kiểm tra ở khách sạn” nhưng sau danh sách “việc cần kiểm tra vào ngày trước hôm đi” và lịch trình. Dù với tất cả những thứ đảm bảo an toàn sắp xếp đâu ra đó này, tôi vẫn cảm thấy lo phát ốm.
Mỗi lần nhìn Will tôi tự hỏi liệu việc mình đang làm có đúng đắn không. Will chỉ mới được bác sĩ đa khoa của anh cho phép đi du lịch vào đêm trước. Anh ăn ít, hầu như ngủ suốt ngày. Trận ốm dường như không làm anh suy yếu, nhưng anh kiệt quệ với cuộc sống, mệt mỏi với sự can thiệp của chúng tôi, với nỗ lực gợi chuyện đầy lạc quan và sự quyết tâm không mệt mỏi của chúng tôi cố làm cho cuộc sống của anh tốt lên. Anh vẫn chịu đựng tôi, nhưng tôi có cảm giác anh thường muốn ở một mình. Anh không biết rằng đó là việc duy nhất tôi không thể làm.
“Một cô tiếp viên tới kìa,” tôi nói, khi cô gái mặc đồng phục có nụ cười rạng rỡ với bìa kẹp hồ sơ trên tay bước nhanh về phía chúng tôi.
“Ồ, cô ấy sẽ có ích trong công tác vận chuyển lắm đây,” Nathan lầm bầm. “Trông cô ấy có vẻ như không nhấc nổi một con tôm đông lạnh.”
“Chúng ta sẽ xoay sở được,” tôi nói. “Chúng ta với nhau sẽ xoay sở được thôi.”
Câu đó đã trở thành câu nói cửa miệng của tôi, kể từ khi tôi nghiệm ra mình muốn làm gì. Từ hôm nói chuyện với Nathan trong khu nhà phụ, tôi chất chứa cảm giác hăng hái mới muốn chứng minh cho tất cả mọi người thấy họ đã sai. Chúng tôi không thực hiện được kỳ nghỉ mà tôi đã lên kế hoạch không có nghĩa Will không thể làm gì.
Tôi lên các diễn đàn, đặt nhiều câu hỏi. Nơi nào có thể là một nơi tốt để Will hồi phục khỏi tình trạng ốm yếu hiện nay? Có ai khác biết chúng tôi có thể đến chỗ nào không? Nhiệt độ là mối quan tâm chính của tôi – thời tiết ở Anh thay đổi chóng mặt (chẳng có gì tồi tệ hơn một khu resort ven biển ở Anh chìm trong mưa gió). Phần lớn châu Âu quá nóng vào tháng Bảy, ngoại trừ Ý, Hy Lạp, miền Nam nước Pháp và những vùng ven biển khác. Tôi có một mơ tưởng, đúng thế. Tôi thấy Will trước mắt, thư giãn bên bãi biển. Vấn đề là chỉ có mấy ngày để lập kế hoạch và lên đường, thế nên cơ hội để biến điều đó thành sự thật là rất nhỏ.
Những người khác tỏ ra thương hại, vô số câu chuyện về chứng viêm phổi được kể ra. Nó dường như đã trở thành bóng ma ám ảnh tất cả mọi người. Có đôi người gợi ý những địa điểm mà chúng tôi nên đi, nhưng chẳng chỗ nào khiến tôi hứng thú. Hay quan trọng hơn, tôi nghĩ chẳng chỗ nào trong số đó làm Will hứng thú. Tôi không thích spa, hay những nơi mà anh có thể thấy người khác đang ở đúng vị trí anh từng có. Tôi không biết rõ điều tôi muốn, nhưng tôi trượt qua hết lượt danh sách đề xuất của họ và biết không có ý kiến nào hợp lý.
Cuối cùng Ritchie, thành viên tích cực của chat-room, chính là người trợ giúp được tôi. Chiều hôm Will xuất viện, anh ta gõ:
Cho tôi địa chỉ của bạn. Anh họ là nhân viên đại lý du lịch. Anh ấy giải quyết được vấn đề.
Tôi gọi vào số điện thoại anh ta cho tôi và nói chuyện với một người đàn ông trung niên có chất giọng Yorkshire khỏe khoắn. Khi ông nói với tôi điều ông nghĩ sẵn trong đầu, một tiếng chuông thức tỉnh khẽ vang lên đâu đó trong tiềm thức của tôi. Và trong vòng hai tiếng, chúng tôi đã sắp đặt xong. Tôi biết ơn ông tới mức tôi suýt khóc.
“Đừng nghĩ gì cả, cưng,” ông nói. “Cưng chỉ cần đảm bảo anh bạn của cưng có khoảng thời gian vui vẻ.”
Điều đó có nghĩa khi chúng tôi lên đường, tôi cũng mệt không kém gì Will. Tôi đã dành nhiều ngày vật lộn tìm ra những điều kiện tốt nhất khi đi du lịch cho người liệt tứ chi, và đến tận buổi sáng khởi hành tôi vẫn chưa tin chắc Will đủ khỏe để lên đường. Lúc này, ngồi bên đống hành lý, khi nhìn anh, xa lánh và nhợt nhạt giữa sân bay náo nhiệt, tôi lại tự hỏi có phải mình đã sai lầm. Đột nhiên tôi hoảng sợ. Anh lại ốm thì sao? Sẽ thế nào nếu anh ghét từng phút trong cả hành trình, như hôm đi xem đua ngựa? Sẽ thế nào nếu tôi đã nhầm về toàn bộ tình huống này, và cái Will cần không phải là một chuyến đi anh dũng, mà là mười ngày nằm ở nhà trên giường của chính anh?
Nhưng chúng tôi không có mười ngày nào nữa cả. Vấn đề là ở đó. Đây là cơ hội duy nhất của tôi.
“Họ đang gọi tới chuyến bay của chúng ta,” Nathan nói khi quay lại từ khu bán đồ miễn thuế. Ông nhìn tôi, nhướng mày, và tôi hít một hơi thật sâu.
“Được rồi,” tôi đáp. “Đi thôi.”
Ngoại trừ việc phải ngồi mười hai tiếng trên máy bay, bản thân chuyến bay không phải là một thách thức như tôi đã e sợ. Nathan chứng tỏ bản thân hết sức khéo léo khi thay đồ cho Will dưới một tấm chăn. Tiếp viên chuyến bay rất quan tâm và kín đáo, và rất cẩn thận với chiếc xe. Như đã hứa, họ cho Will lên đầu tiên, chuyển anh vào chỗ ngồi mà không gây bầm dập và ổn định giữa hai chúng tôi.
Trong vòng một tiếng bay tôi nhận ra rằng thật kỳ lạ là khi ở trên mây trời, với điều kiện ghế ngồi của Will được ngả ra sau và anh được chèn cẩn thận để ngồi vững, anh chẳng khác gì mọi người trong khoang. Ngồi lỳ trước một màn hình, không đi đâu và chẳng làm gì, trên độ cao hơn mười nghìn mét, chẳng có gì nhiều phân tách anh với những hành khách khác. Anh ăn và xem phim, phần lớn thời gian dành cho ngủ.
Nathan và tôi lén mỉm cười với nhau và cố tỏ vẻ như thể chuyện này ổn thỏa, tốt đẹp cả. Tôi nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ, ý nghĩ của tôi náo động như những đám mây dưới kia, nhưng tôi vẫn chưa dám nghĩ tới sự thật rằng với tôi đây không phải là một thử thách về mặt hậu cần mà là một chuyến phiêu lưu – rằng tôi, Lou Clark, đang thẳng tiến tới nửa kia của bán cầu. Tôi không nghĩ nổi về chuyện đó. Lúc ấy tôi không nghĩ được ngoài Will. Tôi cảm thấy mình giống em gái, khi nó mới sinh Thomas. “Cảm giác giống như em đang nhìn qua một cái phễu vậy,” nó nói khi nhìn hình hài đứa con đỏ hỏn. “Thế giới co lại chỉ còn có em với nó.”
Nó đã nhắn tin cho tôi khi tôi ở sân bay.
Chị làm được mà. Em vô cùng tự hào về chị xxx
Lúc này tôi mở lại tin nhắn đó, chỉ để nhìn nó, đột nhiên thấy cảm động, có lẽ là vì cách lựa chọn từ ngữ của nó. Hoặc có lẽ vì tôi đang mệt mỏi và sợ hãi, tôi vẫn cảm thấy khó tin rằng tôi đã đưa chúng tôi đi xa tới thế này. Cuối cùng để xóa những dòng suy nghĩ miên man, tôi bật màn hình ti-vi nhỏ lên, nhìn không chú tâm vào bộ phim truyền hình hài nào đó của Mỹ cho tới khi bầu trời xung quanh tối thẫm.
Khi tỉnh giấc, tôi nhận ra cô tiếp viên đang đứng bên cạnh phục vụ bữa sáng, Will đang nói chuyện với Nathan về bộ phim họ vừa xem cùng nhau, và thật ngạc nhiên – bất chấp mọi khó khăn này – ba chúng tôi chỉ còn chưa đầy một tiếng nữa là hạ cánh xuống quốc đảo Mauritius.
Mãi tới khi chúng tôi chạm chân xuống sân bay quốc tế Sir Seewoosagur Ramgoolam, tôi mới dám tin chuyện này đã thật sự xảy ra. Chúng tôi chếnh choáng đi qua phòng chờ, vẫn còn đờ đẫn vì ngồi lâu trên máy bay, và tôi suýt khóc vì nhẹ nhõm khi thấy chiếc taxi chuyên dụng xuất hiện. Buổi sáng đầu tiên ấy, khi người tài xế lướt nhanh chở chúng tôi tới khu resort, tôi ngắm nhìn hòn đảo một chút. Quả nhiên, màu sắc ở đây có vẻ tươi sáng hơn ở Anh, bầu trời sống động hơn, một màu xanh nhạt vừa biến mất, thay thế bằng một sắc xanh sâu thẳm hơn đang trải ra vô tận. Tôi thấy hòn đảo xanh mơn căng tràn nhựa sống, viền quanh là bạt ngàn vựa mía, biển hiện ra như một dải thủy ngân rót xuống từ những ngọn núi lửa. Không gian thoảng màu sương khói và vị cay nồng, mặt trời chói chang tới nỗi tôi phải nheo mắt trước ánh nắng sáng lòa. Trong trạng thái mệt mỏi lúc này, khung cảnh ấy chẳng khác gì có ai đánh thức tôi bằng những trang tạp chí lộng lẫy.
Nhưng dù tâm trí tôi xao động với cảnh trí xa lạ, tôi vẫn liên tục quay lại nhìn Will, nhìn gương mặt xanh xao yếu ớt của anh, nhìn cách đầu anh rụt sâu đến lạ lùng vào giữa hai vai. Rồi xe chúng tôi rẽ vào con ngõ rợp bóng dừa, dừng lại bên ngoài một tòa nhà thấp và người tài xế đã xuống xe dỡ đồ cho chúng tôi.
Chúng tôi từ chối lời mời uống trà lạnh và dạo một vòng quanh khách sạn. Chúng tôi tìm phòng Will, bỏ hành lý của anh xuống, đặt anh lên giường, và chưa kịp hạ rèm thì anh đã thiếp đi. Thế là chúng tôi đã tới nơi. Tôi đã thực hiện được. Tôi đứng bên ngoài phòng anh, cuối cùng cũng thở phào, trong khi Nathan chăm chú hướng ra cửa sổ nhìn những con sóng bạc đầu trên bãi san hô ngoài kia. Tôi không biết vì hành trình, hay vì đây là nơi đẹp nhất tôi từng thấy trong đời, nhưng bất chợt tôi muốn khóc.
“Không sao đâu,” Nathan nói khi thấy vẻ mặt của tôi. Rồi thật bất ngờ, ông bước tới bao bọc tôi trong một cái ôm ghì. “Thư giãn nào Lou. Mọi chuyện sẽ ổn cả. Thật đấy. Cô làm tốt lắm.”
Mất gần ba ngày tôi mới bắt đầu tin lời ông. Bốn mươi tám tiếng đầu, Will hầu như chỉ ngủ – và rồi thật ngạc nhiên, anh bắt đầu trông khỏe hơn. Da anh thắm lại và những quầng thâm quanh mắt tan dần. Những cơn co thắt giảm đi và anh bắt đầu ăn lại, chạy xe chầm chậm dọc theo dãy đồ buffet sang trọng dài bất tận và bảo với tôi món anh muốn có trên đĩa của mình. Tôi biết anh lại trở về là chính anh hơn khi bắt tôi thử những thứ lẽ ra tôi không bao giờ ăn – cà-ri creole và những món hải sản tôi không biết tên. Anh hòa hợp với nơi này nhanh hơn tôi. Điều đó cũng không có gì lạ. Tôi phải thừa nhận với bản thân rằng trong phần lớn cuộc đời Will, đây vốn là lãnh địa của anh – quả địa cầu này, những bãi biển mênh mông này – chứ không phải cái khu nhà phụ bé tin hin nấp dưới bóng tòa lâu đài.
Như đã hứa hẹn, khách sạn mang tới xe lăn đặc biệt với bánh xe lớn, hầu hết buổi sáng Nathan chuyển Will vào chiếc xe đó rồi cả ba chúng tôi đi xuống bãi biển, tôi cầm theo ô để có thể bảo vệ anh nếu ánh nắng trở nên quá gay gắt. Nhưng nắng không bao giờ chói chang; phía nam của hòn đảo này nổi tiếng với những ngọn gió biển, và mới đầu mùa hè nên nhiệt độ ở khu resort hiếm khi lên tới hai lăm. Chúng tôi thường dừng lại ở một bãi biển nhỏ gần một vách đá, thoát khỏi tầm mắt của tòa khách sạn chính. Khi đó tôi sẽ mở ghế của mình ra, ngồi xuống bên cạnh Will dưới bóng dừa, và chúng tôi sẽ xem Nathan cố lướt ván buồm hoặc lướt ván tàu kéo, thỉnh thoảng từ trên bãi cát chúng tôi lại hét to khích lệ hoặc chửi thề.
Thoạt đầu nhân viên khách sạn chăm sóc Will quá kỹ, luôn đề nghị được đẩy xe cho anh, thường xuyên mang đồ uống lạnh tới. Chúng tôi giải thích những việc chúng tôi không cần họ làm, thế là họ vui vẻ rút lui. Nhưng những lúc tôi không ở bên anh thì thật tốt khi người gác cửa hoặc nhân viên tiếp tân ghé lại nói chuyện với anh, hoặc chia sẻ với anh về những nơi mà họ nghĩ chúng tôi nên đến. Có một cậu thanh niên mảnh khảnh tên là Nadil tự nhận nhiệm vụ làm người chăm sóc không chính thức của Will khi Nathan không ở bên anh. Một hôm tôi đi ra thì thấy cậu cùng một người bạn đang nhẹ nhàng nhấc Will ra khỏi ghế hạ xuống chiếc ghế sưởi nắng dài bọc nệm mà cậu đã đặt sẵn bên cạnh cái cây “của chúng tôi”.
“Thế này tốt hơn đấy,” cậu nói, giơ ngón cái lên với tôi khi tôi băng qua bãi cát. “Cô chỉ cần gọi tôi khi Ngài Will muốn trở lại xe.”
Tôi toan phản đối, và nói với họ rằng họ không nên chuyển dời anh như thế. Nhưng Will đã nhắm mắt lại và nằm yên với vẻ mặt vui thú lạ lùng, thế là tôi im bặt và gật đầu.
Về phần tôi, khi nỗi lo lắng cho sức khỏe của Will dịu xuống, tôi bắt đầu từ từ ngờ rằng mình thực sự đang ở thiên đường. Trong chừng ấy năm cuộc đời tôi chưa bao giờ tưởng tượng mình sẽ được tới một nơi như thế này. Sáng sáng tôi thức giấc với tiếng sóng biển vỗ bờ êm ái, tiếng những loài chim lạ gọi nhau trên những tàng cây. Tôi nhìn lên trần nhà, quan sát ánh nắng vờn hoa lá, và tiếng rì rầm trò chuyện từ phòng bên cạnh đưa sang báo cho tôi biết Will và Nathan đã thức giấc từ lâu. Tôi mặc đồ bơi và quấn xà-rông, thưởng thức cảm giác của nắng ấm sưởi trên vai và lưng. Da tôi bắt đầu rám nắng, móng tay hồng hào, và tôi bắt đầu cảm nhận được chút hạnh phúc hiếm hoi của niềm vui sướng giản đơn khi được sống ở đây – của dạo bộ trên bãi biển, ăn món lạ, bơi trong nước ấm trong vắt nơi có loài cá đen e dè nhìn ngó từ bên dưới những phiến đá mác-ma, hoặc ngắm mặt trời đỏ ối lặn xuống chân mây. Chầm chậm, mấy tháng qua bắt đầu tan biến. Thật xấu hổ nhưng tôi chẳng nghĩ tới Patrick bao giờ.
Ngày của chúng tôi hình thành nhịp điệu. Cả ba chúng tôi ăn sáng cùng nhau, ở những chiếc bàn trong bóng râm quanh bể bơi. Will thường ăn salad trái cây, món mà tôi đút cho anh bằng tay, thỉnh thoảng nếu ngon miệng anh ăn thêm bánh chuối. Rồi chúng tôi đi xuống bãi biển và ngồi ở đó – tôi đọc sách, Will nghe nhạc – trong khi Nathan luyện tập kỹ năng các môn thể thao dưới nước. Will cứ bảo tôi thử tập môn gì đó đi, nhưng thoạt đầu tôi nói không. Tôi chỉ muốn ngồi bên anh. Khi Will khăng khăng quá, một sáng tôi cũng thử lướt sóng và chèo thuyền, nhưng tôi chỉ hạnh phúc nhất khi được quanh quẩn bên anh.
Thỉnh thoảng nếu Nadil tới, và khi resort vắng vẻ, cậu và Nathan sẽ đẩy Will xuống hồ bơi nhỏ có nước ấm, Nathan đỡ dưới đầu anh để anh nổi được. Anh không nói nhiều khi họ làm thế, nhưng trông anh lặng lẽ hài lòng, như thể cơ thể anh đang hồi nhớ về những cảm giác đã quên lãng từ lâu. Tấm thân nhợt nhạt bấy lâu của anh trở nên rám nắng. Những vết sẹo trắng ra rồi từ từ thắm lại. Anh dần thấy thoải mái khi không mặc áo.
Tới bữa trưa, chúng tôi sẽ đi tới một trong ba nhà hàng của khu resort. Bề mặt của toàn bộ khu nhà đều được lát gạch, chỉ vài nơi có mấy bậc tam cấp và đường trượt nhỏ, thế nên Will có thể di chuyển xe lăn một cách hoàn toàn tự chủ. Đây là một chuyện nhỏ, nhưng việc anh có thể tự mình chọn đồ uống mà không cần ai trong hai chúng tôi đi cùng không có ý nghĩa về mặt tạo thời gian nghỉ ngơi cho tôi và Nathan bằng khía cạnh rũ bỏ được trong chốc lát một trong những nỗi thất vọng thường trực của Will – đó là phải phụ thuộc hoàn toàn vào người khác. Nói thế chứ chúng tôi cũng chẳng phải di chuyển nhiều. Dường như cứ khách xuất hiện ở đâu, trên bãi biển hay bên bể bơi, hay thậm chí trong khu spa, là lại có một người phục vụ tươi cười mang tới thức uống mà họ nghĩ khách thích, thường được trang trí với một bông hoa màu hồng thanh nhã. Ngay cả khi khách nằm trên bãi biển, một chiếc xe đẩy cũng sẽ lướt tới, và người phục vụ vui vẻ sẽ mời khách dùng nước suối, nước ép trái cây, hoặc đồ uống mạnh.
Vào buổi chiều, khi nhiệt độ lên cao nhất, Will sẽ về phòng ngủ vài giờ. Tôi sẽ bơi trong bể, hoặc đọc sách, rồi tới chiều tối tất cả chúng tôi sẽ gặp lại nhau để ăn tối ở nhà hàng ven biển. Tôi nhanh chóng tăng hứng thú với cocktail. Nadil phát hiện ra rằng nếu cậu đưa cho Will ống hút đúng cỡ và đặt một ly cao vào khay để ly trên xe lăn, Nathan và tôi sẽ không phải nhúng tay vào nữa. Khi hoàng hôn buông xuống, ba chúng tôi sẽ kể chuyện thời thơ ấu, kể về bạn trai bạn gái đầu đời, công việc đầu tiên, về gia đình và những kỳ nghỉ chúng tôi từng trải qua, và tôi dần dần thấy Will lại là Will.
Chỉ có điều đây là một Will khác lạ. Dường như nơi này đã mang tới cho anh cái cảm giác thanh bình không thấy tăm hơi ở đâu trong suốt thời gian tôi quen anh.
“Cậu ấy khá lên quá nhỉ?” Nathan nói khi gặp tôi bên bàn buffet. “Vâng, tôi nghĩ đúng là thế.”
“Cô biết không…” Nathan ghé lại gần tôi, e ngại Will thấy chúng tôi đang nói chuyện về anh “… tôi cứ nghĩ đi chơi nông trang và phiêu lưu sẽ rất tuyệt. Nhưng nhìn cậu ấy lúc này xem, tôi không thể không nghĩ nơi này đã làm được nhiều hơn.”
Tôi không nói với ông điều tôi đã quyết định hôm đầu tiên, khi chúng tôi nhận phòng, lòng tôi thắt lại vì lo lắng, cứ tính toán xem được mấy ngày thì tôi phải trở về nhà. Tôi phải cố từng ngày trong mười ngày ấy để quên đi tại sao chúng tôi lại ở đây – hợp đồng sáu tháng, tờ lịch đánh dấu cẩn thận, mọi thứ đã xảy ra trước đó. Tôi phải sống trọn vẹn cho khoảnh khắc này và cố khích lệ Will sống tương tự. Tôi phải thật hạnh phúc, với hy vọng Will cũng cảm thấy như thế.
Tôi lấy cho mình thêm một miếng dưa nữa, và mỉm cười. “Thế lát nữa chúng ta làm gì? Karaoke nhé? Hay tai ông chưa hồi phục sau đêm qua?”
Vào tối thứ tư ở đây, Nathan thông báo với chỉ một chút xíu ngượng ngùng rằng ông có cuộc hẹn hò. Karen là một phụ nữ người New Zealand trú ở khách sạn kế bên, và ông đã đồng ý đi xuống phố với cô.
“Chỉ để canh chừng cho cô ấy thôi. Cô cậu biết đấy… Tôi không chắc đây là một nơi hợp lý để cô ấy đi một mình.”
“Không,” Will nói, gật đầu ra chiều hiểu biết. “Ông mới nghĩa hiệp làm sao, Nate.”
“Tôi nghĩ làm thế là rất có trách nhiệm. Rất có tinh thần công dân,” tôi đồng tình.
“Tôi luôn khâm phục Nathan về tính rộng lượng. Đặc biệt là với phái đẹp.” “Bố khỉ hai người,” Nathan cười nhăn nhở rồi biến mất.
Karen nhanh chóng trở thành kẻ bám càng. Hầu như tối nào Nathan cũng đi cùng cô, dù ông luôn trở về vệ sinh cho Will vào buổi đêm, nhưng chúng tôi âm thầm dành cho ông tối đa thời gian đi giải trí.
Vả lại, tôi cũng mừng thầm. Tôi thích Nathan, và tôi mừng vì ông đi cùng, nhưng tôi vẫn thích những lúc chỉ có Will và tôi hơn. Tôi thích lối nói ẩn ý giữa chúng tôi khi không có ai xung quanh, thích cảm giác thân mật dễ dàng đã chăng mắc bấy nay giữa chúng tôi. Tôi thích cách anh quay mặt sang nhìn tôi với vẻ thích thú, như thể không ngờ tôi lại hay hơn anh tưởng nhiều đến vậy.
Vào đêm cuối, tôi nói với Nathan là tôi không phiền nếu ông muốn đưa Karen về khách sạn. Ông đã ngủ nhiều đêm ở khách sạn của cô, và tôi biết điều đó gây khó khăn cho ông vì cứ phải đi bộ hai mươi phút mỗi chiều để chăm sóc những việc cuối cùng trong ngày cho Will.
“Tôi không phiền đâu. Nếu như… ông biết đấy… làm kín đáo một tí nhé.”
Ông rất vui, mê mẩn khi nghĩ tới buổi đêm trước mắt nên vô cùng phấn chấn với tôi, “Cảm ơn, cô bạn.”
“Em thật tốt,” Will nói khi nghe tôi kể chuyện.
“Ý anh là anh thật tốt phải không,” tôi nói. “Em đã dâng tặng phòng anh mà.”
Đêm đó chúng tôi đưa anh vào phòng tôi, Nathan đỡ anh lên giường và cho anh thuốc trong khi Karen chờ trong quán bar. Tôi vào phòng tắm thay quần lót và áo sơ-mi, rồi mở cửa phòng tắm, cắp gối dưới nách và phóc lên ghế sofa. Tôi có cảm giác Will đang nhìn mình chăm chú, đột nhiên tôi thấy ngượng khi nghĩ suốt một tuần trước tôi cứ mặc bikini lượn lờ trước mặt anh. Tôi thả gối xuống tay ghế sofa.
“Clark?”
“Sao cơ?”
“Em không phải ngủ ở đó đâu. Cái giường này đủ rộng cho cả một đội bóng đấy.”
Vấn đề là tôi thậm chí không nghĩ tới chuyện đó. Nhưng sự tình quả là như thế. Có lẽ những ngày dài gần như trần trụi trên bãi biển đã khiến chúng tôi thả lỏng hơn một chút. Có thể đó là vì ý nghĩ ở bên kia tường Nathan và Karen đang cuộn vào nhau như một cái kén. Có thể chỉ là tôi muốn gần anh. Tôi bước tới bên giường, rồi bỗng nhiên một tiếng sét vang lên. Những tia chớp lóe sáng, ai đó ré lên bên ngoài. Chúng tôi nghe thấy từ phòng bên kia, Nathan và Karen cười phá lên.
Tôi đi lại cửa sổ kéo rèm xuống, cảm thấy gió bất ngờ nổi lên, nhiệt độ bỗng nhiên hạ thấp. Ngoài biển bão đang đổ xuống. Những tia chớp chói lòa chiếu sáng cả bầu trời trong thoáng chốc, thế rồi chừng như để tỏ rõ hơn, mưa rào rào như trút nước xuống mái căn nhà gỗ nhỏ của chúng tôi, dữ dội tới mức thoạt đầu tôi chẳng còn nghe được tiếng gì khác.
“Để em kéo cửa chớp lại,” tôi nói. “Không, đừng.”
Tôi quay người lại.
“Mở cửa kính ra.” Will hất đầu ra phía ngoài trời. “Anh muốn nhìn.”
Tôi chần chừ, rồi từ từ mở cửa kính ra sân hiên. Mưa xối rầm rầm xuống khu khách sạn, đổ xuống từ mái nhà chúng tôi, chảy như thác từ sân hiên ra phía biển. Tôi cảm nhận được hơi ẩm trên mặt mình và tĩnh điện trong không khí. Lông măng trên cánh tay tôi dựng đứng lên.
“Em cảm nhận thấy không?” anh hỏi sau lưng tôi. “Giống như tận thế vậy.”
Tôi đứng đó, để cho dòng điện chay qua cơ thể, để ánh chớp trắng xóa in dấu trên bờ mi. Khung cảnh ấy khiến tôi như ngừng thở.
Tôi quay người đi lại giường, ngồi xuống mép giường. Anh cứ nhìn chăm chú, tôi cúi xuống kéo cái cổ rám nắng của anh về phía tôi. Giờ tôi đã biết cách di chuyển anh, cách điều khiển cơ thể nặng và rắn chắc của anh. Giữ anh sát bên mình, tôi cúi xuống đặt một chiếc gối lớn màu trắng dưới vai anh rồi thả anh lên chỗ bồng bềnh mềm mại ấy. Anh mang mùi nắng, như thể nắng đã ăn sâu vào da anh, và tôi âm thầm hít vào hương thơm ấy, như anh là một thức gì rất ngon lành.
Rồi với cơ thể còn hơi ẩm, tôi trèo lên bên cạnh anh, sát tới nỗi chân tôi chạm chân anh, và chúng tôi cùng nhau ngắm vùng sáng xanh lòa khi tia chớp xẹt ngang con sóng, ngắm muôn dòng mưa bạc, ngắm khối ngọc lam khổng lồ lắc lư nhẹ nhàng cách chúng tôi chỉ chừng ba chục mét.
Thế gian xung quanh chúng tôi như co lại, đến độ chỉ còn tiếng bão, biển xanh tím sẫm, và những bức mành sa phập phồng nhè nhẹ. Tôi ngửi thấy mùi hoa sen trong gió đêm, nghe thấy từ xa tiếng tách chén va lanh canh, tiếng kéo ghế vội vã, tiếng nhạc từ một buổi lễ xa xăm nào đó, cảm nhận thấy sự phóng điện của tự nhiên. Tôi với tay cầm tay Will, siết trong tay mình. Tôi thoáng nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ có sự kết nối với thế gian, với một con người nào khác mạnh mẽ như lúc này.
“Không tệ nhỉ, Clark?” Will phá vỡ im lặng. Dù bão nổi, gương mặt anh vẫn bình thản và phẳng lặng. Anh quay sang mỉm cười với tôi, lúc ấy có điều gì đó trong mắt anh, điều gì như cảm giác chiến thắng.
“Không,” tôi nói. “Không hề tệ.”
Tôi nằm yên, nghe tiếng anh thở chậm và sâu, nghe tiếng mưa chìm trong tiếng thở, cảm nhận những ngón tay ấm áp của anh siết lấy tay tôi. Tôi không muốn về nhà. Tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ về nhà. Ở đây Will và tôi được an toàn, khép mình trong thiên đường nhỏ bé của chúng tôi. Cứ nghĩ tới việc trở lại Anh là nỗi sợ kinh hoàng lại cào xé ruột gan tôi và bắt đầu siết chặt lồng ngực.
Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Tôi cố nhắc lại với mình lời của Nathan. Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi.
Cuối cùng, tôi nằm nghiêng, quay lưng ra biển, ngắm nhìn Will. Anh quay đầu để nhìn tôi trong ánh sáng lờ mờ, và tôi có cảm giác như anh sắp nói điều gì. Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi cố không nghĩ về tương lai. Tôi cố trấn tĩnh, cố để cho những cảm xúc đêm nay lan tỏa trong lòng. Tôi không biết chúng tôi sẽ nằm yên, chỉ nhìn vào nhau như thế này được bao lâu thì mí mắt Will từ từ trĩu xuống, cho tới khi anh lẩm bẩm xin lỗi rằng anh nghĩ có lẽ anh… Hơi thở anh nặng dần, anh vùi vào lõm gối và chìm vào giấc ngủ, rồi chỉ còn mình tôi ngắm gương mặt anh, ngắm hàng mi anh chia thành những khoảng nhỏ ở gần khóe mắt, ngắm tàn nhang trên mũi anh.
Tôi tự nhủ mình đã làm đúng. Tôi đã làm đúng.
Cuối cùng cơn bão cũng tự tan vào khoảng một giờ đêm, biến mất đâu đó ngoài biển khơi, những ánh chớp nhạt dần rồi mất dạng, mang cơn bão dữ tới một nơi nào không rõ. Không gian quanh chúng tôi trở nên yên tĩnh, rèm cửa đứng yên, nước rút hết ra biển với tiếng kêu ùng ục. Tôi thức dậy lúc trời còn mờ đất, nhẹ nhàng thả tay ra khỏi tay Will, khép những cánh cửa sổ kiểu Pháp lại, bao bọc căn phòng trong sự tĩnh lặng. Will ngủ – một giấc ngủ ngon lành, thanh bình anh hiếm khi có ở nhà.
Tôi không ngủ được. Tôi nằm đó quan sát anh, cố ép mình không được suy nghĩ gì.
Có hai thứ đã xảy ra vào ngày cuối cùng. Một là dưới sự ép buộc của Will, tôi đã đồng ý thử lặn biển. Mấy ngày qua anh cứ ì xèo suốt với tôi, bảo rằng tôi không thể đi chừng ấy chặng đường tới đây mà không chịu lặn xuống nước. Tôi đã thất bại trong trò lướt ván buồm, không tài nào nhấc nổi ván lên khỏi sóng, và tôi cứ liên tục cắm mặt xuống nước dọc con vịnh trọn thời gian thử chơi trò lướt ván. Nhưng hôm trước anh cứ khăng khăng bắt tôi lặn, rồi khi đi ăn trưa về anh tuyên bố đã đặt cho tôi một khóa học lặn nửa ngày dành cho người bắt đầu.
Sự khởi đầu không mấy suôn sẻ. Will và Nathan ngồi bên thành bể bơi trong khi ông thầy dạy lặn cố làm tôi tin rằng người ta vẫn thở được dưới nước, nhưng cảm giác họ đang ngồi quan sát mình khiến tôi trở nên vô tích sự. Tôi không dốt – tôi hiểu những bình oxy trên lưng sẽ giúp tôi thở, tôi biết mình không chìm – nhưng cứ hễ đầu chúi xuống nước là tôi lại hoảng hốt trồi lên mặt nước. Cứ như thể cơ thể tôi không chịu tin rằng nó vẫn có thể thở dưới vài ngàn ga-lông nước khử bằng clo sạch nhất của quốc đảo Mauritius.
“Tôi nghĩ tôi chẳng chơi được trò này đâu,” tôi nói khi mò lên khỏi nước lần thứ bảy, thở phì phò.
James, ông thầy dạy lặn của tôi, liếc nhìn về phía Will và Nathan. “Tôi không làm được,” tôi cáu kỉnh. “Không phải kiểu của tôi.”
James quay lưng về phía hai người đàn ông, vỗ vai tôi rồi hất đầu ra phía biển. “Nhiều người thấy dễ hơn ở ngoài kia,” ông nói khẽ.
“Ở biển á?”
“Nhiều người dễ lặn ở vùng nước sâu hơn. Thôi nào. Lên thuyền ra ngoài kia.”
Bốn lăm phút sau, tôi nhìn chăm chú vào cảnh trí tươi sáng rực rỡ chìm trong lòng nước, quên mất nỗi sợ rằng bình oxy có thể bị hỏng, rằng tôi sẽ chìm xuống đáy biển và chết sặc, thậm chí tôi không hề thấy sợ nữa. Tôi thả tâm trí vào những bí mật của một thế giới mới. Trong cái im lặng chỉ thi thoảng bị phá vỡ bởi tiếng thở phì phò khá to của chính tôi, tôi quan sát từng đàn cá con đủ sắc, và những con cá mình trắng pha đen lớn hơn cứ nhìn tôi với vẻ mặt dò hỏi ngơ ngác, và những đám hải quỳ dập dờn nhè nhẹ. Tôi ngắm cảnh trí xa xa, rực rỡ và phong phú gấp hai lần trên mặt đất. Tôi thấy những hang hốc nơi sinh vật không rõ tên ẩn nấp, những hình dáng xa xôi sáng mập mờ trong ánh nắng. Tôi không muốn quay trở lên. Tôi muốn ở đó mãi, trong thế giới yên ả ấy. Chỉ tới khi James chỉ vào đồng hồ trên bình oxy của ông, tôi mới nhận ra mình không có quyền lựa chọn.
Khi cuối cùng cũng rảo bước trên bãi biển về phía Will và Nathan, tôi nói không ra hơi, chỉ cười sung sướng. Tâm trí tôi vẫn còn ong ong với những hình ảnh vừa nhìn thấy, chân tay vẫn khua khoắng như còn dưới nước.
“Thích nhỉ?” Nathan nói.
“Sao anh không nói với em?” tôi càm ràm Will, thả đôi chân vịt xuống cát trước mặt anh. “Sao anh không bảo em chơi trò này sớm hơn? Hay thế cơ mà! Tất cả hiện hữu, thường trực! Ngay trước mũi em!”
Will nhìn tôi tha thiết. Anh không nói gì, nhưng anh từ từ mỉm cười hết cỡ. “Anh không biết, Clark. Chỉ là một số người sẽ không được bảo phải làm gì.”
Đêm qua tôi đã để mình say xỉn. Không phải chỉ vì ngày mai chúng tôi sẽ về. Mà đó là vì lần đầu tiên tôi cảm thấy rõ ràng rằng Will đang khỏe và tôi có thể “thả ga”. Tôi mặc một chiếc váy cotton trắng (lúc này da tôi đã rám nắng thế nên mặc đồ trắng không khiến tôi trông giống tử thi quấn vải liệm) và đi đôi xăng-đan dây màu bạc, và khi Nadil đưa cho tôi một bông hoa màu đỏ rồi hướng dẫn tôi cài lên tóc, tôi không cáu kỉnh với cậu như tôi đã như vậy cách đó một tuần.
“Ô, chào Carmen Miranda,” Will nói khi chúng tôi gặp nhau ở quầy bar. “Em quyến rũ quá.”
Tôi toan đáp lại một câu châm chọc thì nhận ra anh đang nhìn tôi với vẻ yêu thích chân thành.
“Cảm ơn anh,” tôi nói. “Anh cũng đâu quá bệ rạc.”
Có tiệc nhảy ở khu khách sạn chính, thế nên gần mười giờ đêm – khi Nathan đã đi chơi với Karen – chúng tôi dạo xuống bãi biển với tiếng nhạc trong tai và cảm giác lâng lâng mà ba ly cocktail mang lại làm cho mỗi bước đi của tôi trở nên thật dịu dàng.
Ồ, bãi biển quả là tuyệt đẹp. Đêm rất ấm, vương theo làn gió là hương thơm của những bữa tiệc barbecue xa xa, của tinh dầu ấm dưỡng thể, của muối biển nhạt nhòa. Will và tôi dừng lại bên cái cây yêu thích. Ai đó đã chụm một ngọn lửa trên biển, có lẽ là để nấu ăn, và tất cả những gì còn lại là một đống tàn tro bập bùng.
“Em không muốn về nhà,” tôi nói, hướng mặt về bóng đêm. “Xa nơi này thật khó.”
“Em không nghĩ có những nơi như thế này tồn tại bên ngoài phim ảnh,” tôi nói, quay mặt lại nhìn anh. “Nó thực sự khiến em tự hỏi không biết có phải anh đã nói thật về tất cả những thứ khác.”
Anh mỉm cười. Cả gương mặt anh thư giãn và hạnh phúc, mắt anh nhìn tôi lấp lánh. Tôi nhìn anh, và lần đầu tiên trong đời cái nhìn ấy không gợi lên thoáng sợ hãi nào gặm nhấm tâm can.
“Anh vui vì đã đến đây, phải không?” tôi ngập ngừng hỏi. Anh gật đầu. “Tất nhiên rồi.”
“Haha!” Tôi thở phào.
Thế rồi, khi ai đó bật nhạc bên quầy bar, tôi đá giày ra và bắt đầu nhảy. Nghe thì thật ngớ ngẩn – đó là kiểu hành động mà vào một ngày khác có lẽ sẽ khiến ta thấy xấu hổ. Nhưng khi đó, trong trời đêm tối như mực, chếnh choáng vì thiếu ngủ, bên ánh lửa trại và biển bất tận và màn đêm vô định, với âm nhạc trong tai và Will mỉm cười bên cạnh và trái tim tôi vỡ òa với một cảm xúc không gọi thành lời, tôi chỉ cần được nhảy. Tôi nhảy, cười, không e ngại, không lo sợ liệu có ai nhìn thấy chúng tôi. Tôi cảm thấy Will ngắm mình và tôi biết anh biết – rằng đây chỉ là phản ứng tất nhiên đối với mười ngày qua. Ôi không, với sáu tháng qua mới đúng.
Bản nhạc kết thúc, tôi hổn hển ngồi phịch xuống bên chân anh. “Em…” anh nói.
“Sao ạ?” Nụ cười của tôi méo mó. Tôi cảm thấy chao đảo, chếnh choáng.
Tôi không điều khiển nổi mình nữa.
Anh lắc đầu.
Tôi từ từ đứng dậy trên đôi chân trần, đi tới ngay bên cạnh chiếc xe lăn rồi sà vào lòng anh, để mặt tôi gần sát mặt anh. Sau buổi tối hôm trước, chẳng hiểu sao đây dường như không phải một việc miễn cưỡng.
“Em…” Đôi mắt lấp lánh ánh lửa của anh khóa mắt tôi. Anh mang mùi nắng, mùi lửa, và hương cam đậm đặc.
Tôi thấy lòng mình trào lên cảm giác gì đó. “Em… thật khác, Clark.”
Tôi làm điều duy nhất tôi có thể nghĩ ra. Tôi vươn người tới, đặt môi lên môi anh. Anh chần chừ, chỉ trong một giây, rồi anh hôn tôi. Và trong thoáng chốc tôi quên bẵng mọi thứ trên đời – một triệu lẻ một lý do tôi không nên làm thế, nỗi sợ hãi, nguyên nhân chúng tôi ở đây. Tôi hôn anh, hít vào hương thơm trên da anh, cảm nhận làn tóc anh mềm mại dưới các ngón tay mình, rồi khi anh hôn lại tôi thì tất cả điều này đều biến mất, chỉ còn lại Will và tôi, trên một hòn đảo giữa địa cầu, dưới muôn ngàn vì sao lấp lánh.
Rồi anh rụt lại. “Anh… anh xin lỗi. Không…”
Tôi mở bừng mắt. Tôi đưa một tay lên mặt anh, lướt trên bầu mặt đẹp đẽ. Tôi thấy như có lớp muối nham nhám dưới ngón tay mình. “Will…” tôi cất tiếng. “Anh có thể. Anh…”
“Không.” Nó mang một vẻ khắc nghiệt, cái từ đó. “Anh không thể.” “Em không hiểu.”
“Anh không muốn vào đó.” “Ưm… Em nghĩ anh phải vào đó.”
“Anh không thể làm việc này vì anh không thể…” anh nuốt khan. “Anh không thể làm người đàn ông anh muốn ở bên cạnh em. Và điều đó có nghĩa là chuyện này…” anh ngước lên nhìn mặt tôi “… chuyện này chỉ trở thành… một lời nhắc nhở khác về con người mà anh không được làm.”
Tôi không để anh quay mặt đi. Tôi nghiêng trán chạm vào trán anh, để hơi thở chúng tôi hòa trộn, và tôi nói thật khẽ để chỉ một mình anh nghe thấy lời tôi, “Em không quan tâm anh… anh nghĩ anh có thể và không thể làm gì. Chuyện này đâu tách bạch như trắng và đen. Thật ra… em đã nói chuyện với nhiều người trong hoàn cảnh tương tự và… và có nhiều thứ có thể làm lắm. Nhiều cách để cả hai ta cùng hạnh phúc…” Tôi đã bắt đầu hơi lắp bắp. Chỉ nói tới chuyện này thôi cũng đủ khiến tôi thấy kỳ cục. Tôi ngước lên nhìn sâu vào mắt anh. “Will Traynor,” tôi nói khẽ. “Đây là vấn đề. Em nghĩ chúng ta có thể làm…”
“Không, Clark…” anh cất tiếng.
“Em nghĩ chúng ta có thể làm mọi thứ. Em biết đây không phải một chuyện tình dễ dàng. Em biết có đủ thứ lý do mà em thậm chí không nên nói ra suy nghĩ của mình. Nhưng em yêu anh. Chân thành. Em biết điều đó khi em rời bỏ Patrick. Và em nghĩ có lẽ anh cũng yêu em một chút.”
Anh không nói gì. Anh nhìn sâu vào mắt tôi, có nỗi buồn thật nặng nề trong đôi mắt ấy. Tôi vuốt tóc anh khỏi thái dương, như thể bằng cách nào đó tôi có thể lấy đi nỗi buồn của anh, và anh nghiêng đầu ngả vào lòng bàn tay tôi, để nó nghỉ trên đó.
Anh nuốt vào. “Anh phải nói với em một điều.” “Em biết,” tôi thì thầm. “Em biết hết.”
Will im lặng giữa chừng. Không khí quanh chúng tôi chừng như đông đặc lại.
“Em biết về Thụy Sỹ. Em biết… vì sao em được thuê với hợp đồng sáu tháng.”
Anh nghiêng đầu khỏi bàn tay tôi. Anh nhìn tôi, rồi ngước lên trời. Vai anh so lại.
“Em biết cả, Will. Em biết mấy tháng rồi. Và Will, hãy nghe em…” Tôi nắm bàn tay phải của anh trong tay tôi, áp lên má mình. “Em biết chúng ta có thể làm chuyện này. Em biết đây không phải cuộc đời anh đã chọn, nhưng em biết em có thể khiến anh hạnh phúc. Và tất cả những gì em có thể nói là anh biến em… anh biến em thành một người em thậm chí chưa từng tưởng tượng ra. Anh khiến em hạnh phúc, dù anh rất nhiêu khê. Em muốn ở bên anh – dù đó là con người mà dường như anh nghĩ là rất vô dụng – hơn bất kỳ ai trên thế giới.”
Tôi cảm thấy các ngón tay anh hơi siết lại quanh tay mình, điều đó cho tôi dũng khí.
“Nếu anh nghĩ chuyện em làm việc cho anh quá kỳ cục, thì em sẽ đi làm việc ở chỗ khác. Em muốn nói với anh – Em vừa nộp đơn theo học một đại học. Em đã nghiên cứu rất kỹ trên internet, nói chuyện với rất nhiều người liệt tứ chi và người chăm sóc cho họ, và em đã học được rất nhiều, rất nhiều về việc làm thế nào để chuyện này êm đẹp. Em làm được, và sẽ chỉ ở bên anh. Giờ em là con người như thế đấy. Đó là lỗi của anh. Anh đã thay đổi em.” Tôi thoáng cười. “Anh đã biến em thành em gái em. Chỉ có điều có thẩm mỹ thời trang tốt hơn.”
Anh đã nhắm mắt lại. Tôi ấp đôi tay quanh tay anh, nâng những khớp ngón tay anh lên môi và hôn chúng. Tôi cảm thấy da anh áp vào da mình, và tôi biết rất rõ rằng tôi sẽ không bao giờ để anh đi.
“Anh nghĩ sao?” tôi thì thầm.
Tôi nhìn vào mắt anh chừng như cả thế kỷ.
Anh đáp rất nhỏ, tới nỗi trong một hồi lâu tôi không dám chắc mình có nghe chính xác.
“Gì cơ?” “Không, Clark.” “Không?”
“Anh xin lỗi. Thế không đủ.”
Tôi thả tay anh xuống. “Em không hiểu.”
Anh chờ rất lâu mới cất tiếng, như thể anh đang đánh vật một cách khó nhọc để tìm từ ngữ chính xác. “Thế là không đủ với anh. Thứ này – thế giới của anh – kể cả khi có em trong đó. Hãy tin anh, Clark, cả cuộc đời anh đã tốt lên từ khi em đến. Nhưng vẫn không đủ với anh. Đây không phải cuộc đời anh muốn.”
Giờ đến lượt tôi co người lại.
“Vấn đề là, anh hiểu đây có thể là một cuộc sống tốt. Anh hiểu rằng với em ở bên, có thể đây thậm chí còn là một cuộc đời rất đẹp. Nhưng nó không phải cuộc đời của anh. Anh không giống những người em nói tới. Cuộc đời này chẳng hề giống cuộc đời anh muốn có. Dù chỉ một chút.” Giọng anh đứt quãng, vỡ òa. Gương mặt anh khiến tôi thấy sợ.
Tôi nuốt khan, lắc đầu. “Anh… anh có lần đã nói với em rằng đừng để cái đêm trong mê cung ấy định hình con người em. Anh đã nói em có thể lựa chọn cái gì làm nên con người mình. Ôi, anh không được để cái… cái xe lăn ấy định hình anh.”
“Nhưng nó định hình anh, Clark ạ. Em không biết về anh, không biết rõ. Em chưa bao giờ thấy anh trước khi bị như thế này. Anh yêu cuộc đời anh, Clark. Yêu vô cùng. Anh yêu công việc, du lịch, yêu con người anh trước đây. Anh yêu cảm giác được làm người khỏe mạnh. Anh muốn thắng thế người ta trong hợp đồng làm ăn. Anh thích làm tình. Làm tình thật nhiều. Anh đã sống một cuộc đời rộng lớn.” Giờ đây giọng anh trở nên gay gắt. “Anh không sinh ra để tồn tại trong thứ này – và bất chấp mọi ý định và mục đích, giờ đây cái xe này định hình con người anh. Nó là thứ duy nhất định hình anh.”
“Nhưng anh thậm chí không cho nó một cơ hội,” tôi thì thầm. Giọng tôi chừng như không cất lên nổi khỏi lồng ngực. “Anh không cho em cơ hội.”
“Đây không phải vấn đề cho em cơ hội. Anh đã quan sát em sáu tháng qua để thấy em trở thành một con người hoàn toàn khác, một con người chỉ vừa mới bắt đầu nhận ra nhiệm vụ của mình. Em không biết điều đó khiến anh vui sướng bao nhiêu đâu. Anh không muốn em bị trói buộc vào anh, vào những cuộc thăm khám ở bệnh viện, vào những hạn chế của cuộc đời anh. Anh không muốn em bỏ lỡ biết bao nhiêu thứ mà một ai đó khác có thể mang lại cho em. Và thật ích kỷ, anh không muốn một ngày nào đó em nhìn anh và cảm thấy dù chỉ một chút xíu hối hận hay tiếc nuối vì…”
“Em sẽ không bao giờ nghĩ thế.”
“Em không biết được đâu, Clark. Em làm sao biết được chuyện này sẽ dẫn tới đâu. Em không biết dù chỉ sáu tháng nữa thôi em sẽ cảm thấy thế nào. Và anh không muốn nhìn thấy em mỗi ngày, nhìn em trần truồng, nhìn em lang thang trong khu nhà phụ với những bộ đồ kỳ cục mà không… không thể làm điều anh muốn làm với em. Ôi, Clark, giá em biết ngay lúc này anh muốn làm gì với em. Anh… anh không thể sống được với suy nghĩ đó. Anh không thể. Đó không phải là anh. Anh không phải kiểu người cứ thế… chấp nhận…”
Anh liếc nhìn xuống xe lăn, giọng anh vỡ vụn. “Anh sẽ không bao giờ chấp nhận thứ này.”
Tôi đã khóc. “Làm ơn đi Will. Làm ơn đừng nói thế. Cho em một cơ hội. Cho chúng ta một cơ hội thôi.”
“Suỵt. Nghe nào. Em, hơn bất kỳ ai khác. Hãy nghe điều anh đang nói. Thứ này… đêm nay… là thứ tuyệt diệu nhất em có thể làm cho anh. Điều em vừa nói với anh, điều em đã làm là đưa anh tới đây… biết được điều đó – từ con người anh ban đầu vốn rất tệ bạc, em đã khai quật được chút gì đó để yêu – chẳng hiểu sao khiến anh rất ngạc nhiên. Nhưng…” Tôi cảm thấy tay anh khép lại quanh tay mình “… anh cần kết thúc ở đây. Không xe lăn nữa. Không còn viêm phổi. Không còn lửa thiêu đốt chân tay. Không còn đau đớn và mệt mỏi, không còn mỗi sáng thức giấc với khao khát mọi chuyện đã chấm dứt. Khi chúng ta trở về, anh vẫn sẽ đi Thụy Sỹ. Nếu em thực lòng yêu anh như lời em nói, Clark, một điều em có thể khiến anh hạnh phúc hơn mọi điều là đi cùng anh.”
Tôi ngửa đầu ra. “Gì?”
“Anh sẽ không bao giờ khá lên cả. Vấn đề là anh sẽ chỉ ngày càng ốm yếu và cuộc đời anh, vốn đang đà lao dốc, sẽ ngày một hạn hẹp hơn. Các bác sĩ đã nói đại ý như thế. Sẽ có hàng đống chuyện tệ hại xảy ra với anh. Anh cảm nhận được điều đó. Anh không muốn đau đớn thêm chút nào nữa, hay mắc kẹt trong thứ này, hay dựa dẫm vào mọi người, hay sợ hãi. Thế nên anh đề nghị em – nếu em thực lòng cảm thấy điều em nói rằng em đã cảm thấy – thì hãy làm điều ấy. Ở bên anh. Cho anh cái kết mà anh mong chờ.”
Tôi nhìn anh sợ hãi, mạch máu đập thình thịch. Tôi không tiếp nhận nổi chuyện này.
“Sao anh có thể đề nghị em điều đó.” “Anh biết, nó…”
“Em nói với anh rằng em yêu anh và muốn xây dựng tương lai cùng anh, thế mà anh lại đề nghị em tới xem anh tự vẫn?”
“Anh xin lỗi. Anh không muốn tỏ ra vô tình. Nhưng anh không có thời gian để hoang phí.”
“Sao… cơ? Ôi, anh đã đặt chỗ rồi à? Có cuộc hẹn nào anh sợ bị lỡ sao?”
Tôi biết người trong khách sạn đang dừng lại, có lẽ vì nghe thấy chúng tôi cao giọng, nhưng tôi không quan tâm.
“Phải,” Will nói, sau một thoáng ngập ngừng. “Phải, đúng thế. Anh đã nhận được giấy hội chẩn. Bệnh viện đó cho rằng anh là trường hợp phù hợp với họ. Bố mẹ anh đã đồng ý chọn ngày mười ba tháng Tám. Bọn anh đặt vé bay tới đó trước một ngày.”
Tim tôi chao đảo. Chỉ còn chưa đầy một tuần nữa. “Em không tin nổi…”
“Louisa…”
“Em cứ nghĩ… Em cứ nghĩ em đã thay đổi được quyết định của anh.”
Anh nghiêng đầu nhìn tôi. Giọng anh êm ái, mắt anh dịu dàng. “Louisa, chẳng có gì từng thay đổi ý định của anh. Anh hứa cho bố mẹ anh sáu tháng, và anh cho họ đúng chừng ấy. Em đã biến thời gian ấy thành khoảng thời gian quý giá hơn em tưởng. Em đã biến nó thành bài kiểm tra sức chịu đựng…”
“Đừng!”
“Sao?”
“Đừng nói gì nữa.” Tôi nghẹn ngào. “Anh quá ích kỷ, Will. Quá ngu ngốc. Làm như có khả năng dù nhỏ nhất rằng em sẽ đi cùng anh tới Thụy Sỹ vậy… làm như anh nghĩ em là người làm được điều đó, sau tất cả những gì em làm cho anh, đó là tất cả những gì anh có thể nói với em sao? Em đã móc trái tim ra trước mặt anh. Thế mà tất cả những gì anh có thể nói là, ‘Không, em không đủ với anh. Và giờ anh muốn em đi xem điều khủng khiếp nhất mà em có thể tưởng tượng.’ Cái điều em khiếp đảm kể từ ngày em phát hiện ra. Anh có biết anh đang yêu cầu em điều gì không vậy?”
Giờ tôi đang giận điên người. Đứng trước mặt anh, la hét như người điên. “Khốn kiếp, Will Traynor. Khốn kiếp. Em ước em chưa bao giờ nhận công việc kinh khủng này. Em ước em chưa bao giờ gặp anh.” Tôi òa khóc nức nở, chạy trên bãi biển về phòng khách sạn, rời khỏi anh.
Giọng anh gọi tên tôi ngân trong tai tôi rất lâu sau khi tôi khép cửa.
Chương 24
Chẳng có điều gì khiến người qua lại phiền lòng bằng việc nhìn một người đàn ông ngồi xe lăn cầu xin một cô gái lẽ ra phải là người chăm sóc anh ta. Rõ ràng tức giận với ông chủ tàn phế không phải là một điều hay ho.
Đặc biệt khi hẳn nhiên anh ta không thể di chuyển, và cứ gọi rất dịu dàng, “Clark. Làm ơn. Lại đây nào. Xin em đấy.”
Nhưng tôi không thể. Tôi không thể nhìn anh. Nathan đã xếp đồ cho Will, và tôi gặp cả hai người họ vào sáng hôm sau – Nathan vẫn còn chếnh choáng sau cơn say – và từ khi chúng tôi lại phải đi cạnh nhau, tôi từ chối làm bất cứ việc gì cùng anh. Tôi tức giận và tuyệt vọng. Có một giọng nói cuồng nộ liên tục vang lên trong đầu tôi, ra lệnh cho tôi phải xa cách Will hết mức. Trở về nhà. Không bao giờ gặp lại anh.
“Cô ổn chứ?” Nathan hỏi, xuất hiện sau lưng tôi.
Ngay khi tới sân bay, tôi đã rời khỏi hai người để đi tới quầy soát vé. “Không,” tôi nói. “Và tôi không muốn nói về chuyện đó.”
“Mệt vì say à?” “Không.”
Có một khoảng im lặng ngắn.
“Là điều tôi nghĩ sao?” Nét mặt ông đột nhiên sa sầm.
Tôi không nói được. Tôi gật đầu, và tôi thấy quai hàm Nathan siết lại trong một thoáng. Nhưng ông mạnh mẽ hơn tôi. Nói cho cùng, ông là người chuyên nghiệp. Mấy phút sau ông quay lại chỗ Will, chỉ cho anh thứ gì đó ông vừa thấy trong một cuốn tạp chí, đặt câu hỏi về tương lai của một đội bóng nào đó mà cả hai cùng biết. Quan sát họ, người ta sẽ không thấy biểu hiện của thông tin mà tôi vừa thông báo.
Tôi cố làm mình bận rộn trong cả lúc chờ đợi ở sân bay. Tôi tìm ra một nghìn công việc lặt vặt để làm – luôn tay luôn chân với nhãn dán hành lý, mua cà-phê, chăm chú đọc báo, đi vệ sinh – tất cả việc gì có thể khiến tôi không phải nhìn anh. Tôi không phải nói chuyện với anh. Nhưng thỉnh thoảng Nathan lại biến mất và chúng tôi chỉ còn lại một mình, ngồi bên cạnh nhau, khoảng cách ngắn giữa chúng tôi vang lên chát chúa những mâu thuẫn không nói thành lời.
Mỗi lần như vậy anh lại cất tiếng, “Clark.”
Còn tôi sẽ cắt lời anh, “Đừng. Em không muốn nói chuyện với anh.”
Tôi cũng phải ngạc nhiên với chính mình về khả năng tỏ ra lạnh nhạt. Tôi đã làm các cô tiếp viên ngạc nhiên. Tôi thấy họ trên máy bay, thì thầm với nhau về cái cách tôi quay phắt người khỏi Will, nhét tai nghe hoặc quay hẳn mặt ra ngoài cửa sổ.
Vấn đề là, anh không giận. Đó có lẽ là phần tồi tệ nhất của chuyện này. Anh không giận, và anh không tỏ ra thô lỗ, anh chỉ trở nên lặng lẽ hơn rồi chẳng nói gì nữa. Chỉ còn lại Nathan cố gắng gợi chuyện suốt dọc đường, ông cứ hỏi xem có ai dùng trà hay cà-phê hay những túi đậu phộng rang miễn phí không, hoặc hỏi xem hai chúng tôi thấy phiền không nếu ông trèo qua chúng tôi để đi vệ sinh.
Nói thế này có lẽ hơi trẻ con, nhưng đây không chỉ là vấn đề lòng tự trọng. Tôi không chịu đựng nổi. Tôi không chịu được ý nghĩ rằng tôi sẽ buông tay anh, rằng anh quá cứng đầu, quá kiên quyết không thèm biết cái gì là tốt, cái gì sẽ tốt, rằng anh sẽ không thay đổi ý định. Tôi không tin được rằng anh vẫn bám lấy cái ngày đó, như thể nó là một thứ bất di bất dịch. Một triệu câu hỏi thầm nhao nhác trong đầu tôi. Tại sao thế này không đủ với anh? Tại sao em không đủ với anh. Tại sao anh không tin cậy em? Nếu chúng ta có thêm thời gian, chuyện này có khác đi không? Thỉnh thoảng tôi đưa mắt lén nhìn đôi tay rám nắng của anh, những ngón tay vững chãi ấy, chỉ cách tay tôi dăm phân, và tôi lại nhớ cảm giác khi chúng tôi siết tay nhau – hơi ấm của anh, ảo giác về một sức mạnh ngầm ẩn, dù trong sự tĩnh tại – rồi cục nghẹn dâng lên cổ tôi cho tới khi tôi nghĩ mình không thở nổi nữa và tôi phải chui vào nhà vệ sinh, gục xuống lặng lẽ khóc bên bồn rửa dưới ánh đèn nê-ông. Thỉnh thoảng khi nghĩ tới điều Will vẫn quyết tâm thực hiện, tôi thực sự phải kìm nén để không gào lên; tôi cảm thấy ngập lụt trong cảm giác điên rồ và nghĩ tôi có thể ngồi phịch xuống giữa hai hàng ghế mà hú mà hét cho tới khi ai đó ngăn lại. Cho tới khi ai đó đảm bảo rằng anh ấy sẽ không làm điều đó.
Thế nên dù trông tôi có vẻ trẻ con – tuy với tiếp viên trong khoang này thì tôi có vẻ là người phụ nữ tàn nhẫn nhất thế gian (vì tôi từ chối nói chuyện với Will, không nhìn anh, không cho anh ăn) – nhưng tôi biết giả vờ như anh không ở đó là cách duy nhất giúp tôi ứng phó được với những giờ gần như quá sức chịu đựng này. Nếu tin Nathan có thể một mình xoay xở thì tôi đã đổi chuyến bay, thậm chí còn biến mất cho tới khi biết chắc giữa hai chúng tôi là cả một lục địa chứ không chỉ có mấy phân ngắn ngủi.
Hai người đàn ông ngủ, điều đó tạo cảm giác nhẹ nhõm – một quãng nghỉ thoát khỏi nỗi căng thẳng. Tôi nhìn lên màn hình ti-vi, và cứ mỗi dặm về, tôi lại cảm thấy trái tim mình nặng nề hơn, nỗi căng thẳng càng tăng lên. Tôi bắt đầu nghĩ ra rằng thất bại này không chỉ của riêng tôi; bố mẹ Will sẽ vô cùng tuyệt vọng. Có thể họ sẽ đổ lỗi cho tôi. Có thể em gái Will sẽ đi kiện tôi. Và đó cũng là nỗi thất bại của tôi với Will. Tôi đã không thuyết phục được anh. Tôi đã trao cho anh mọi thứ tôi có thể trao, kể cả bản thân mình, thế nhưng chẳng có điều gì tôi trao anh thuyết phục nổi anh rằng có một lý do để sống.
Tôi thầm nghĩ, có lẽ anh xứng đáng với một người tốt hơn tôi. Ai đó thông minh hơn. Một người như Treena hẳn sẽ nghĩ những việc hay hơn để làm. Có thể họ sẽ tìm ra một thông tin về nghiên cứu y học hiếm hoi nào đó hoặc một thứ có thể giúp anh. Có thể họ sẽ thay đổi được ý định của anh. Sự thật là tôi sẽ phải sống với suy nghĩ đó suốt phần đời còn lại khiến tôi gần như lịm đi.
“Uống chút gì nhé Clark?” Giọng Will phá vỡ dòng suy nghĩ của tôi. “Không. Cảm ơn.”
“Khuỷu tay anh có chiếm nhiều chỗ để tay của em quá không?”
“Không. Ổn cả.”
Chỉ trong mấy giờ cuối cùng ấy, trong màn đêm, tôi mới cho phép mình nhìn anh. Ánh mắt tôi chầm chậm đảo nghiêng từ màn hình ti-vi đang sáng của tôi cho tới khi lén nhìn được anh trong ánh sáng lờ mờ của khoang máy bay nhỏ bé. Và khi tôi nhìn gương mặt anh, rám nắng và điển trai, vô cùng bình yên trong giấc ngủ, một dòng nước mắt lăn trên má tôi. Có lẽ vô thức cảm nhận được tôi đang quan sát, Will cựa quậy nhưng không tỉnh giấc. Tránh mắt tiếp viên trong khoang và Nathan, tôi từ từ kéo chăn lên quanh cổ anh, dém cẩn thận, để đảm bảo dưới gió điều hòa, Will không thấy lạnh.
Họ đang chờ ở Cổng Ra. Chẳng hiểu sao tôi biết họ sẽ tới. Tôi đã thoáng có cảm giác nôn nao lan tỏa trong lòng ngay khi chúng tôi đẩy xe Will qua khu kiểm tra hộ chiếu, được thông qua nhanh chóng bởi một viên chức tốt bụng dù tôi cứ cầu nguyện rằng chúng tôi sẽ bị buộc phải chờ, phải đứng xếp hàng hàng tiếng đồng hồ, mấy ngày ròng càng tốt. Nhưng không, chúng tôi băng qua sàn nhà lót thảm rộng lớn, tôi đẩy hành lý, Nathan đẩy Will, và khi cửa kính mở, họ ở đó, ngay bên rào chắn, đứng cạnh nhau với vẻ gần gũi hiếm thấy. Tôi thấy gương mặt bà Traynor thoáng bừng lên khi bà nhìn thấy Will và tôi lơ đãng thầm nghĩ, Tất nhiên rồi – trông anh ấy rất tuyệt. Và xấu hổ, tôi đeo kính râm lên – không phải để che giấu nét mệt mỏi, mà để bà không thấy ngay biểu hiện lộ rõ của tôi về điều tôi sẽ phải nói với bà.
“Nhìn con kìa!” bà kêu lên. “Will, trông con tuyệt quá. Rất tuyệt.”
Bố Will cúi xuống, vỗ lên xe lăn của con trai và đầu gối anh, gương mặt ông rạng rỡ. “Bố không tin nổi khi nghe Nathan kể ngày nào con cũng đi xuống biển. Bơi nữa chứ! Nước thế nào con – thích và ấm lắm phải không? Ở đây thì mưa như trút suốt. Tháng Tám điển hình!”
Tất nhiên. Nathan đã nhắn tin hoặc gọi điện cho họ. Cứ như thể họ có thể để chúng tôi đi chừng ấy thời gian mà không hỏi han gì vậy.
“Đó… đó là một nơi rất đẹp,” Nathan nói. Ông cũng đã trở nên lặng lẽ, nhưng lúc này ông cố mỉm cười để tỏ ra bình thường.
Tôi thấy máu đông đặc, tay nắm chặt hộ chiếu như thể sắp đi một nơi nào khác. Tôi phải nhắc mình nhớ thở.
“À, bố mẹ nghĩ có lẽ con thích một bữa tiệc đặc biệt,” bố Will nói. “Có một nhà hàng rất đẹp đẽ vui nhộn ở khu Intercontinental. Có sâm-banh nữa. Con nghĩ sao? Mẹ con và bố nghĩ có lẽ ở đó ăn ngon.”
“Được ạ,” Will nói. Anh mỉm cười với bà và bà nhìn lại anh như thể muốn níu giữ nụ cười ấy. Sao anh có thể làm thế? Tôi muốn hét lên với anh. Sao anh có thể nhìn bà ấy như thế khi mà anh đã biết điều anh sắp làm với bà?
“Thế thì đi nào. Bố để xe trong bãi đỗ dành cho người khuyết tật. Từ đây lại đó mất một chút thôi. Bố chắc ai cũng hơi say máy bay. Nathan, ông có muốn tôi mang bớt giỏ cho không?”
Giọng tôi vang lên cắt ngang câu chuyện. “Thật ra,” tôi nói – tôi đã rút hành lý của mình xuống khỏi xe kéo – “tôi nghĩ tôi phải về. Dù sao cũng cảm ơn.”
Tôi mải mê nhìn xuống giỏ xách của mình, cương quyết không nhìn lên họ, nhưng ngay trong không khí ồn ào ở sân bay, tôi vẫn cảm nhận thấy thoáng yên lặng mà những từ tôi nói gây ra.
Ông Traynor cất tiếng phá tan khoảng lặng đó. “Thôi nào, Louisa. Chúng ta cùng chúc mừng một chút. Chúng tôi muốn nghe mọi chuyện phiêu lưu của cả ba người. Tôi muốn biết thật nhiều về hòn đảo đó. Và tôi hứa cô sẽ không phải kể hết cho chúng tôi đâu.” Ông gần như phì cười.
“Phải đấy.” Giọng bà Traynor nghe thoáng gay gắt. “Đi cùng đi, Louisa.” “Không đâu.” Tôi nuốt khan, cố mỉm cười hòa nhã. Cặp kính là tấm khiên che chắn. “Cảm ơn ông bà. Tôi thật sự muốn về hơn.”
“Về đâu?” Will hỏi.
Tôi nhận ra điều anh đang nói. Tôi thật tình chẳng có nơi nào để đi. “Em sẽ về nhà bố mẹ. Mọi chuyện sẽ ổn.”
“Đi với bọn anh,” anh nói. Giọng anh thật dịu dàng. “Đừng về, Clark. Làm ơn.”
Khi ấy tôi muốn khóc. Nhưng tôi biết vô cùng chắc chắn rằng tôi không thể ở gần anh. “Không. Cảm ơn anh. Chúc anh một bữa ngon miệng.” Tôi hất túi xách qua vai, rồi trước khi có ai kịp lên tiếng, tôi bước khỏi chỗ họ, biến mất vào giữa biển người ở sân bay.
Sắp tới bến xe buýt thì tôi nghe tiếng bà. Camilla Traynor, đôi guốc cao gót lạch cạch trên vỉa hè, nửa đi nửa chạy về phía tôi.
“Dừng lại. Louisa. Làm ơn dừng lại.”
Tôi quay lại, bà đang luồn lách qua một nhóm du khách, gạt đám choai choai vai đeo ba-lô qua một bên như Moses rẽ sóng. Ánh đèn sân bay sáng rạng trên mái tóc bà, biến nó thành màu đồng sẫm. Bà choàng khăn pashmina xám thanh lịch, vắt rất khéo qua một bên vai. Tôi lơ đễnh nghĩ có lẽ vài năm trước bà đã vô cùng xinh đẹp.
“Làm ơn. Làm ơn dừng lại.”
Tôi dừng lại, liếc nhìn ra phía sau đường, mong sao xe buýt đến ngay, mong nó sẽ hút tôi lên và cuỗm tôi đi. Mong một chuyện gì đó sẽ xảy đến. Một trận động đất nhỏ chẳng hạn.
“Sao vậy Louisa?”
“Anh ấy đã có khoảng thời gian vui vẻ.” Giọng tôi nghe vụn vỡ. Giống giọng bà một cách lạ lùng, tôi thầm nghĩ.
“Nhìn nó tuyệt lắm. Tuyệt lắm mà.” Bà nhìn tôi trân trân, đứng chôn chân giữa vỉa hè. Bỗng nhiên bà như hóa đá, bất chấp biển người như thác lũ quanh bà.
Chúng tôi im lặng.
Rồi tôi cất tiếng, “Bà Traynor, tôi sẽ gửi đơn thôi việc. Tôi không thể… tôi không thể làm gì trong mấy ngày còn lại. Tôi sẽ bồi thường khoản tiền tôi nợ. Quả thực, tôi không muốn nhận tiền tháng này. Tôi chẳng muốn gì cả. Tôi chỉ…”
Lúc ấy bà trở nên tái nhợt. Tôi thấy mặt bà thất sắc, thấy bà hơi chao đảo trong ánh nắng mai. Tôi thấy ông Traynor đi tới phía sau bà, bước chân vội vã, một tay giữ chặt chiếc mũ rộng vành trên đầu. Ông lẩm bẩm xin lỗi khi lách qua đám đông, mắt ông nhìn về phía tôi và vợ ông khi chúng tôi đứng lặng như tờ cách nhau vài bước.
“Cô… cô đã nói cô nghĩ nó hạnh phúc. Cô nói cô nghĩ chuyện này có thể thay đổi quyết định của nó.” Giọng bà thấm nỗi tuyệt vọng, như thể bà đang cầu xin tôi nói điều gì đó khác, cho bà một kết luận khác.
Tôi chẳng biết nói gì. Tôi nhìn bà trân trân, và tôi chỉ biết lắc đầu khe khẽ. “Tôi xin lỗi,” tôi thì thầm, khẽ tới nỗi bà chẳng nghe thấy.
Ông tới vừa kịp lúc bà ngã khuỵu xuống. Chân bà cứ thế sụm xuống, và ông Traynor đưa tay trái ra đỡ bà khi bà gục ngã, miệng bà há hốc, cơ thể bà đổ vào người ông.
Chiếc mũ của ông bay xuống vỉa hè. Ông liếc lên nhìn tôi, nét mặt bối rối, vẫn chưa tiếp nhận nổi chuyện vừa xảy ra.
Tôi không thể nhìn. Tôi quay người, đờ đẫn, rồi tôi bắt đầu bước đi, chân này tới chân kia, đôi chân bước đi trước khi bộ não kịp nghĩ xem chúng định làm gì, rời khỏi sân bay, thậm chí chẳng biết mình định đi đâu. http://credit-n.ru/zaymi-listing.html http://credit-n.ru/offers-zaim/zaym-na-kartu_migcredit.html