Chương 12
Tôi có thể kể chính xác với bạn ngày tôi không còn lòng dũng cảm nữa.
Đó là gần bảy năm trước, vào những ngày cuối cùng nóng nực, trễ nải của tháng Bảy, khi những con phố nhỏ quanh lâu đài chật ních du khách, không gian đong đầy tiếng bước chân ngập ngừng của họ và tiếng rộn ràng của những chiếc xe tải bán kem xếp hàng thường trực trên đỉnh đồi.
Bà ngoại tôi mất một tháng trước đó sau thời gian dài đau ốm, thế nên choàng lên mùa hè năm ấy là nỗi u sầu dìu dịu; nó nhẹ nhàng bao phủ lên mọi việc chúng tôi làm, dập tắt tính ưa hò la sinh sự của chị em tôi, trì hoãn lịch trình quen thuộc của mùa hè với những kỳ nghỉ ngắn ngày và những buổi đi chơi. Mẹ tôi đứng hầu như cả ngày bên chậu giặt, lưng bà căng lên với nỗ lực ngăn dòng nước mắt, còn bố thì sáng nào cũng đi làm với vẻ mặt tư lự, nhiều tiếng sau lại về nhà với khuôn mặt bóng nhẫy vì cái nóng và chừng nào còn chưa mở bia thì chưa cất nổi nên lời. Em gái tôi ở nhà nhân dịp nghỉ hè năm nhất đại học, đầu óc nó đã để ở đẩu đâu xa lắc thị trấn nhỏ của chúng tôi. Tôi hai mươi tuổi, ba tháng sau thời điểm này tôi sẽ gặp Patrick. Chúng tôi đang thưởng thức một trong những mùa hè hiếm hoi được tự do tuyệt đối – không gánh nặng tài chính, không nợ nần, không nợ thời gian bất kỳ ai. Tôi có một công việc thời vụ, và có vô khối thời gian để thực tập trang điểm, đi đôi giày cao gót làm bố tôi nhăn cả mặt, và về cơ bản đã hiểu được mình là ai trên đời.
Những ngày ấy, tôi ăn mặc bình thường. Hay nói đúng hơn, tôi ăn mặc như bao cô gái khác trong thị trấn – tóc dài chấm ngang vai, quần Jean màu chàm, áo phông bó vừa đủ để khoe vòng eo bé tí và bộ ngực nhô cao. Chúng tôi dành hàng giờ để hoàn thiện kỹ thuật tô son bóng và đánh đúng màu khói cho mắt. Trông chúng tôi điểm nào cũng đẹp, thế nhưng chúng tôi vẫn cứ càm ràm suốt ngày về điểm sần không tồn tại và tì vết chẳng thấy đâu trên da dẻ.
Tôi có nhiều ý tưởng. Những thứ tôi muốn làm. Một anh chàng tôi quen ở trường đã chu du vòng quanh thế giới, để rồi khi trở về trông cậu ta thật khác biệt và lạ lẫm, như thể cậu không phải là cái thằng nhóc mười một tuổi còm nhom chuyên trị thổi bong bóng nước bọt trong suốt hai tiết tiếng Pháp. Tôi đã đặt một chuyến bay giá rẻ tới Úc trong phút bốc đồng, và cố tìm người có thể đi cùng mình. Tôi thích vẻ ngoại lai mà những chuyến đi khoác lên con người cậu ấy, sự xa lạ. Cậu ấy đã mang tới những làn gió nhẹ của một thế giới rộng lớn hơn, và điều đó tạo nên nét quyến rũ lạ lùng. Nói cho cùng, mọi người ở đây đều biết tường tận về con người tôi. Và với một đứa em như em tôi, tôi không bao giờ được phép quên bất cứ điều gì về con người ấy.
Hôm đó là thứ Sáu, ngày hôm ấy tôi làm công việc hướng dẫn đỗ xe cùng với một nhóm bạn nữ học cùng trường cũ, chỉ dẫn cho du khách tới tham dự một hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ tổ chức trên sân của tòa lâu đài. Ấn tượng về ngày hôm đó là tiếng cười đùa râm ran, đồ uống có ga tu ừng ực dưới mặt trời nóng rẫy, bầu trời xanh ngăn ngắt, ánh nắng xuyên qua những bức tường thành có lỗ châu mai. Hôm đó chẳng có vị du khách nào không mỉm cười với tôi. Làm sao họ có thể không mỉm cười với những cô gái vui vẻ, luôn cười rúc rích cơ chứ. Chúng tôi được trả ba mươi bảng, và vì quá hài lòng với số người tham dự nên nhà tổ chức đã cho mỗi đứa chúng tôi thêm năm bảng. Chúng tôi ăn mừng bằng một chầu say xỉn cùng mấy cậu trai đã làm việc ở bãi đỗ xe phía xa bên cạnh khu đón khách. Họ ăn nói lịch sự, mặc áo polo chơi bóng bầu dục, mái tóc mềm mại. Một cậu có tên là Ed, hai trong số họ đã vào đại học – giờ tôi vẫn chẳng nhớ ra là trường nào – và họ cũng đang đi làm để kiếm tiền vào kỳ nghỉ hè. Họ có rất nhiều tiền mặt sau cả một tuần làm phục vụ, thế nên khi chúng tôi cháy túi, họ rất vui khi được mua đồ uống cho những cô gái địa phương đã ngà ngà, luôn tay vuốt tóc, ngồi trên lòng nhau, không ngừng nô đùa rồi cười ré lên, và cứ gọi họ là quyền quý. Họ nói thứ tiếng rất lạ; họ nói về những ngày tháng bỏ học bỏ làm để đi du lịch, về những mùa hè ở Nam Mỹ, về du lịch bụi ở Thái Lan, về người đang cố thực hiện chuyến đi thực tập ở nước ngoài. Khi chúng tôi đang vừa uống vừa nghe kể chuyện, em gái tôi dừng lại bên quán bia ngoài trời, nơi chúng tôi đang nằm ngả ngốn trên cỏ. Nó mặc chiếc áo cũ rích cũ rơ và không trang điểm, và tôi quên bẵng mất lẽ ra tôi phải đi gặp nó. Tôi bảo với nó về nói bố mẹ là sau ba mươi tuổi tôi mới về nhà. Chẳng hiểu sao tôi thấy ý tưởng này buồn cười kinh khủng. Nó nhướng mày lên, rồi ngang nhiên bỏ đi như thể tôi là kẻ rắc rối nhất từng có mặt trên đời.
Khi quán Red Lion đóng cửa, tất cả chúng tôi đi vào ngồi giữa trung tâm mê cung của tòa lâu đài. Có đứa xoay xở bò qua cổng, sau khi va đụng tóe lửa và cười rũ rượi, tất cả chúng tôi đều tìm được đường vào chính giữa mê cung để ngồi đó uống rượu táo mạnh, trong khi đó có một đứa chuyền tay một điếu thuốc gai dầu tự quấn. Tôi nhìn chăm chú lên bầu trời đầy sao, cảm thấy mình như biến mất vào chiều sâu vô định của những vì tinh tú, mặt đất dập dềnh chao đảo quanh tôi như một boong tàu khổng lồ. Một người đang chơi guitar, tôi đi đôi giày cao gót sa-tanh hồng, tôi đá văng nó vào bụi cỏ rậm và chẳng bao giờ đi tìm lại. Tôi nghĩ hẳn mình đang làm chủ thế gian.
Phải nửa tiếng sau tôi mới nhận ra đám con gái đã đi hết.
Em gái tôi tìm thấy tôi, ở đó giữa trung tâm mê cung, một hồi sau, rất lâu sau khi mây đêm đã thế chỗ những vì sao. Tôi nói rồi đấy, nó rất thông minh. Quả tình là thông minh hơn tôi.
Nó là người duy nhất tôi từng biết có thể tìm đường ra khỏi mê cung đó một cách an toàn.
“Chuyện này sẽ khiến anh buồn cười cho xem. Tôi vừa làm thẻ thư viện.”
Will đang ngập giữa bộ sưu tập CD của mình. Anh quay xe lại, chờ đợi cho tôi đặt xong ly nước xuống chỗ để ly trên xe. “Thật sao? Cô đang đọc gì.”
“Tôi chẳng có gì sâu xa cả. Anh sẽ không thích nó đâu. Chỉ toàn chuyện trai gái quen nhau thôi mà. Nhưng tôi thích nó.”
“Hôm nọ cô đã đọc cuốn của Flannery O’Connor.” Anh uống một ngụm nước. “Bữa tôi bị ốm đó.”
“Tập truyện ngắn ấy hả? Không tin nổi là anh để ý thấy nó đấy.”
“Làm sao tôi không để ý thấy cho được. Cô để cuốn sách bên cạnh tôi. Tôi không cầm nó lên được.”
“À.”
“Thế nên đừng đọc những thứ vớ vẩn. Mang tập truyện của O’Connor về nhà. Thay vào đó hãy đọc nó.”
Tôi định nói không, nhưng rồi nhận ra mình không biết chắc tại sao lại từ chối. “Được thôi. Đọc xong tôi sẽ mang trả ngay.”
“Bật nhạc cho tôi nhé Clark?” “Anh muốn nghe gì?”
Anh bảo tôi tên CD, hất đầu chỉ vị trí áng chừng của nó, và tôi lục lọi cho tới khi tìm ra nó.
“Tôi có một người bạn chơi ở vị trí violin trưởng ở dàn nhạc giao hưởng Albert. Cậu ấy đã gọi báo rằng tuần tới cậu ấy sẽ chơi ở gần đây. Đoạn nhạc này đây. Cô biết nó không?”
“Tôi chẳng biết gì về nhạc cổ điển cả. Thỉnh thoảng bố tôi vô tình mở nhạc cổ điển trên đài FM, nhưng…”
“Cô chưa bao giờ đi nghe hòa nhạc hả?” “Chưa.”
Trông anh thực sự kinh ngạc.
“À, thật tình tôi có đi xem Westlife một lần. Nhưng tôi không chắc như thế có được tính không. Đó là lựa chọn của em gái tôi. Ôi, tôi đã định đi xem Robbie Williams vào sinh nhật hai hai tuổi, nhưng tôi lại bị ngộ độc thức ăn.”
Will nhìn tôi ánh mắt kinh điển ấy – ánh nhìn gợi ra ý nghĩ có lẽ thật tình tôi đã bị khóa trái trong ngục thất của ai đó suốt nhiều năm.
“Cô nên đi. Cậu ấy cho tôi vé. Buổi biểu diễn này hay lắm đấy. Đưa mẹ cô đi cùng.”
Tôi bật cười và lắc đầu. “Tôi không nghĩ thế đâu. Mẹ tôi chẳng bao giờ đi chơi. Và đó cũng không phải lãnh địa của tôi.”
“Cũng giống như phim có phụ đề không phải lãnh địa của cô chứ gì?”
Tôi cau có với anh. “Tôi không phải công trình của anh đâu Will. Cái này không phải My Fair Lady. ”
“Pygmalion.” “Gì cơ?”
“Buổi biểu diễn cô đang nói tới đó. Nó là Pygmalion. My Fair Lady chỉ là hàng con cháu tầm thường của nó thôi.”
Tôi liếc nhìn anh. Chẳng ích gì. Tôi bật chiếc đĩa. Khi tôi quay lại, anh vẫn lắc lắc đầu.
“Cô đúng là kẻ hợm mình kinh khủng nhất, Clark.” “Cái gì? Tôi ư?”
“Cô loại bỏ mọi loại trải nghiệm đó khỏi cuộc đời mình vì cô tự nhủ mình ‘không thuộc kiểu người đó’.” “Thì đúng là thế mà.”
“Làm sao mà cô biết được? Cô chưa từng làm gì, chưa từng đi đâu. Làm sao cô có thể biết được dù chỉ chút xíu cô là kiểu người gì?”
Làm sao một người như anh hiểu chút gì về con người tôi. Tôi thấy gần như tức giận với anh vì cứ ngoan cố không chịu hiểu điều đó.
“Tiến lên. Mở mang trí óc của cô đi.” “Không.”
“Tại sao?”
“Vì tôi thấy không thoải mái. Tôi cảm thấy như thể… tôi cảm thấy như thể người ta sẽ biết.”
“Ai? Biết cái gì?”
“Mọi người khác trên đời sẽ biết, rằng tôi không thuộc về những thứ đó.” “Cô nghĩ tôi cảm thấy thế nào?”
Chúng tôi nhìn vào mắt nhau.
“Clark, giờ đây bất cứ nơi nào tôi tới người ta cũng nhìn tôi như thể tôi không thuộc về nơi đó.”
Chúng tôi ngồi yên lặng khi nhạc nổi lên. Bố Will đang nói chuyện điện thoại trong sảnh, tiếng cười cố nén lan theo sảnh vào khu nhà phụ như thể đến từ một nơi xa lắm. Lối đi dành cho người tàn tật ở đằng kia, người phụ nữ ở cuộc đua ngựa đã nói thế. Như thể anh là một giống loài khác.
Tôi nhìn vào vỏ đĩa. “Tôi sẽ đi nếu anh đi cùng tôi.” “Nhưng như thế đâu phải là tự cô đi.”
“Không khác được.”
Chúng tôi ngồi yên trong khi anh suy ngẫm chuyện này. “Chúa ơi, cô đúng là khó chịu thật đấy.”
“Anh cứ việc nói thế đi.”
Lần này chúng tôi không lên kế hoạch. Tôi không mong đợi gì. Tôi chỉ âm thầm hy vọng rằng sau thất bại ở chuyến đi xem đua ngựa, Will vẫn sẵn sàng ra khỏi khu nhà phụ. Bạn anh, người nhạc công, gửi vé miễn phí cho chúng tôi như đã hứa, kèm theo một tờ bướm ghi thông tin địa điểm biểu diễn. Nơi đó cách nhà Will bốn mươi phút lái xe. Tôi chuẩn bị sẵn mọi thứ từ nhà, kiểm tra nơi đỗ xe dành cho người tàn tật, gọi trước cho nhà hát để nắm được cách thuận tiện nhất để đưa xe lăn vào ghế của Will. Họ sẽ cho chúng tôi ngồi trước, tôi ngồi ở ghế gấp bên cạnh Will.
“Đó thực sự là chỗ ngồi tốt nhất đấy,” người phụ nữ ở phòng vé vui vẻ nói. “Khi ngồi ở sàn nhà hát, ngay cạnh ban nhạc, cô sẽ thấy âm nhạc tác động mạnh mẽ hơn. Tôi vẫn luôn khao khát được ngồi ở đó.”
Cô thậm chí còn hỏi chúng tôi xem liệu chúng tôi có muốn có người tới gặp chúng tôi trong bãi đỗ xe để giúp chúng tôi tới chỗ ngồi không. Sợ rằng Will sẽ cảm thấy người ta quan tâm quá đáng, tôi cảm ơn cô rồi bảo không cần.
Khi buổi tối đó tới, tôi không biết ai trở nên căng thẳng hơn ai, Will hay là tôi. Tôi còn cảm nhận rõ nỗi thất bại của chuyến đi chơi gần đây. Bà Traynor thì chẳng giúp đỡ gì, cứ đi ra đi vào khu nhà phụ tới mười bốn lần để xác nhận buổi biểu diễn sẽ tổ chức ở đâu, khi nào, chính xác thì chúng tôi cần gì.
Sinh hoạt buổi tối của Will phải thực hiện đầy đủ vào một lúc nào đó, bà nói. Bà cần đảm bảo có người ở đấy để giúp đỡ. Nathan thì có việc riêng rồi. Ông Traynor rõ ràng lại đi chơi tối. “Ít nhất nó cũng phải mất một tiếng rưỡi,” bà nói.
“Và nó sẽ chán kinh hồn,” Will nói.
Tôi nhận ra anh đang kiếm cớ thoái thác để khỏi phải đi. “Tôi sẽ làm việc đó,” tôi nói. “Nếu Will cho tôi biết phải làm gì. Tôi không phiền nếu phải ở lại giúp đỡ đâu.” Tôi nói ra câu đó trước khi kịp nhận ra mình đang đồng ý làm việc gì.
“Ồ, đó là điều mà cả hai chúng ta đều mong đợi đấy,” Will nói nhát gừng, sau khi mẹ anh đã đi ra. “Cô thấy hết mông má của tôi, còn tôi thì được tắm trên giường bởi một cô nàng mà vừa nhìn thấy da thịt trần trụi thì đã chết ngất.”
“Tôi đâu có chết ngất khi thấy da thịt trần trụi.”
“Clark, tôi chưa thấy ai thiếu thoải mái với cơ thể con người như cô. Cô làm như thể nó là phóng xạ không bằng.”
“Vậy thì để mẹ anh làm đi,” tôi phản pháo.
“Được thôi, vì như thế sẽ khiến toàn bộ ý tưởng ra ngoài đi chơi quyến rũ hơn nhiều.”
Rồi lại còn vấn đề với tủ quần áo. Tôi chẳng biết phải mặc gì.
Bữa đi xem đua ngựa tôi đã mặc không hợp lý. Làm sao tôi dám chắc tôi sẽ không mắc lại lỗi đó lần nữa? Tôi hỏi Will mặc gì là tốt nhất, anh nhìn tôi như thể tôi bị điên. “Đèn sẽ tắt,” anh giải thích. “Chẳng ai nhìn cô đâu. Người ta tập trung vào âm nhạc.”
“Anh chẳng biết tí gì về phụ nữ cả,” tôi nói.
Cuối cùng khi đi làm tôi mang theo bốn bộ đồ khác, nhét tất cả vào cái giỏ đựng suit của bố rồi tống lên xe buýt. Rốt cuộc đó là cách duy nhất tôi có thể thuyết phục mình đi.
Nathan tới vào buổi trà chiều lúc năm giờ rưỡi, và trong khi ông để mắt đến Will, tôi chui vào phòng tắm để chuẩn bị. Đầu tiên, tôi mặc vào bộ đồ mà tôi nghĩ đúng “gu” của mình nhất, chiếc đầm suôn màu xanh có đính những viên cườm bự chảng màu hổ phách. Tôi tưởng tượng kiểu người đi nghe nhạc chắc hẳn phải âm thầm toát ra vẻ nghệ thuật và khoa trương. Will và Nathan cùng nhìn chằm chằm khi tôi bước vào phòng khách.
“Không,” Will nói thẳng thừng.
“Trông bộ đó như đồ của mẹ tôi ấy,” Nathan nói.
“Sao chưa bao giờ ông nói mẹ ông là ca sĩ Nana Mouskouri nhỉ,” Will đế thêm.
Tôi nghe rõ tiếng hai người họ cười khùng khục khi tôi chui trở vào phòng tắm.
Bộ thứ hai là chiếc đầm đen tuyền – cắt chéo, đính cổ và nẹp tay màu trắng – mà tôi tự may lấy cho mình. Trông nó vừa sang trọng vừa ra dáng người Paris, ấy là tôi nghĩ thế.
“Trông cô như chuẩn bị đi bán kem không bằng,” Will nói.
“Ôi, cô bạn, dù sao cô cũng sẽ thành người phục vụ tuyệt vời đấy,” Nathan tán thành. “Mặc bộ đó vào ban ngày thì không sao đâu. Thật đấy.”
“Ông sẽ phải đề nghị cô ấy lần tới phủi bụi diềm váy đi rồi hãy mặc.” “Cậu nói phải, cái đầm hơi bụi đấy.”
“Hai người,” tôi nói. “Ngày mai trong trà của cả hai sẽ có nước lau nhà Mr Muscle cho xem.”
Tôi bỏ qua bộ đồ thứ ba – chiếc quần ống rộng màu vàng – vì biết trước thể nào Will cũng liên tưởng tới chú gấu Rupert, và thay vì thế mặc vào lựa chọn thứ tư, chiếc đầm vintage vải sa-tanh đỏ đun. Nó được may cho một thời đại tiết kiệm hơn, và tôi luôn phải thầm cầu nguyện rằng tôi có thể kéo khóa qua eo, nhưng nó cho tôi vóc dáng của một ngôi sao trẻ thập niên 1950, và nó là chiếc đầm “thắng lợi”, một bộ đồ mà khi mặc ta không thể không cảm thấy mình đẹp. Tôi khoác chiếc áo FH màu bạc qua vai, quàng tấm khăn lụa màu xám quanh cổ để che khe ngực, thoa chút son tiệp màu, rồi bước ra phòng khách.
“Oa oa,” Nathan kêu lên tán thưởng.
Mắt Will lướt lên lướt xuống bộ đầm của tôi. Tới lúc đó tôi mới nhận ra anh đã thay áo sơ-mi và suit. Râu cạo nhẵn, mái tóc đã cắt gọn gàng, trông anh đẹp trai kỳ lạ. Tôi không thể không nở nụ cười khi nhìn thấy anh như thế. Không phải vì ngoại hình của anh; mà đó là vì anh đã cố gắng.
“Chiếc này được rồi,” anh nói. Giọng anh vô cảm và đều đều một cách kỳ cục. Khi tôi cúi xuống chỉnh viền áo, anh nói thêm, “Nhưng bỏ áo FH ra.”
Anh nói đúng. Tôi biết nó không thật phù hợp. Tôi cởi nó ra, gấp cẩn thận rồi đặt lên thành xe lăn.
“Cả cái khăn nữa.”
Tôi giật tay lên cổ. “Cái khăn? Tại sao?”
“Nó không phù hợp. Trông cứ như thể cô đang cố giấu cái gì phía sau nó vậy.”
“Nhưng tôi… ừm, nếu không quàng khăn tôi sẽ lộ hết khe ngực.”
“Thế thì sao?” anh nhún vai. “Nghe này, Clark, nếu cô định mặc loại váy này, cô cần phải mặc nó với lòng tự tin. Cô cần phải đong đầy nó bằng cả thể xác lẫn tinh thần.”
“Trên đời chỉ có anh, Will Traynor, là bảo phụ nữ cách mặc một chiếc đầm đỏ.”
Nhưng tôi bỏ cái khăn ra.
Nathan đi xếp túi đồ cho Will. Tôi đang nghĩ xem nên nói thêm gì về cái tính kẻ cả quá quắt của anh, thì khi quay lại tôi thấy anh vẫn đang nhìn tôi.
“Trông cô tuyệt lắm, Clark,” anh nói khẽ. “Rất đẹp.”
Tôi đã quan sát mấy phản ứng thường gặp của những người bình thường – những người mà có lẽ Camilla Traynor sẽ gọi là người thuộc “tầng lớp lao động” – khi nhìn thấy Will. Đa số sẽ nhìn chằm chằm. Số ít sẽ mỉm cười tội nghiệp, biểu lộ sự thương cảm, hoặc hỏi tôi với giọng thì thầm như trên phim xem chuyện gì đã xảy ra. Tôi thường rất muốn được đáp lại rằng, “Nhân viên Cơ quan Tình báo MI6 không may bị lộ,” chỉ để xem phản ứng của họ, nhưng tôi chưa bao giờ nói thế.
Còn với tầng lớp trung lưu thì thế này. Họ vờ như không nhìn, nhưng thực chất lại có nhìn. Họ quá lịch sự nên không nhìn chằm chằm. Thay vì thế, họ làm một việc rất kỳ cục là bắt hình Will trong tầm mắt mình nhưng vẫn kiên quyết không nhìn anh. Cho tới khi anh đi qua hẳn, họ sẽ nhìn thẳng về phía anh, dù miệng vẫn tiếp tục trò chuyện với người khác. Nhưng họ không nói về anh. Vì như thế là quá thô lỗ.
Khi chúng tôi tới sảnh chờ nhà hát Symphony, nơi những nhóm người lịch thiệp đang đứng, tay này cầm túi xách và tờ chương trình, tay kia cầm ly gin và tonic, tôi thấy loại phản ứng này lướt qua họ như một đợt sóng nhẹ nhàng theo chân chúng tôi vào tận chỗ ngồi. Giờ đây khi nghĩ lại, tôi không biết Will có để ý không. Đôi khi tôi nghĩ cách duy nhất để anh đối phó với điều đó là vờ như chẳng thấy gì.
Chúng tôi ngồi xuống, hai người duy nhất ngồi phía trước khu ghế giữa. Bên phải chúng tôi có một người đàn ông nữa ngồi xe lăn đang trò chuyện rôm rả với hai phụ nữ ngồi hai bên ông. Tôi quan sát họ, hy vọng rằng Will cũng để ý thấy họ. Nhưng mắt anh hướng thẳng phía trước, đầu anh vùi sâu giữa hai vai, như thể anh đang cố để ẩn mình.
Chuyện này sẽ chẳng đến đâu cả, một giọng nói vang lên trong đầu tôi. “Anh có cần gì không?” tôi thì thầm.
“Không,” anh lắc đầu. Anh nuốt khan. “Thật ra là có. Thứ gì đó đang chui vào cổ áo tôi.”
Tôi cúi lại gần, thò tay vào trong cổ áo anh; một tấm mác còn sót bên trong.
Tôi lôi nó ra, hy vọng giật được nó đi, nhưng nó ngoan cố trụ lại. “Áo mới. Tấm mác làm anh khó chịu lắm hả?”
“Không. Tôi chỉ nghĩ tôi mang theo nó cho ngộ thôi.” “Anh có mang theo kéo trong túi xách không.”
“Tôi không biết, Clark. Tin hay không tùy cô nhé, tôi chả mấy khi tự mình xếp túi cả.”
Trong túi không có kéo. Tôi liếc ra sau, khán giả vẫn đang dần dần yên vị trên ghế, rì rầm trò chuyện và xem qua tờ chương trình. Nếu Will không thể thư giãn và tập trung vào âm nhạc, buổi đi chơi sẽ thành uổng phí. Tôi không chịu nổi thất bại lần thứ hai.
“Ngồi yên nhé,” tôi nói. “Sao…”
Trước khi anh kịp dứt câu, tôi vươn người tới, nhẹ nhàng lật cổ áo anh ra, đặt miệng lên đó, kẹp tấm mác phiền toái vào mấy chiếc răng cửa. Mất mấy giây tôi mới cắn đứt được nó, rồi tôi nhắm mắt lại, cố giũ bỏ hương thơm đàn ông sạch mát, giũ bỏ cảm giác da thịt anh ấn vào da thịt tôi, sự vô lý của việc tôi đang làm. Thế rồi cuối cùng, tôi thấy nó rụng ra. Tôi kéo đầu ra và mở mắt, vui mừng, với tấm mác đứt nằm giữa mấy chiếc răng cửa.
“Được rồi!” tôi nói, lôi tấm mác ra khỏi răng rồi liệng nó xuống dưới ghế. Will nhìn tôi chăm chăm.
“Gì thế?”
Tôi quay người trên ghế thì nhận ra khán giả phía sau đột nhiên chúi mắt vào tờ chương trình như thể nó vô cùng hấp dẫn. Rồi tôi quay lại Will.
“Ôi, thôi nào, đâu thể nào từ trước tới nay người ta chưa từng nhìn thấy một cô gái gặm cổ áo một chàng trai cơ chứ.”
Có vẻ như tôi đã bịt được miệng anh trong thoáng chốc. Will chớp mắt vài cái, khe khẽ lắc đầu. Tôi ngạc nhiên nhận ra là cổ anh đã đỏ dừ.
Tôi vuốt phẳng váy. “Dù sao,” tôi nói, “tôi nghĩ cả hai chúng ta nên biết ơn vì nó không nằm trong quần của anh.”
Thế rồi, trước khi anh kịp đáp trả, ban nhạc bước ra, người mặc vét-tông dạ tiệc, người mặc đầm cocktail, và khán giả im bặt. Trong tôi bỗng trào lên chút phấn khích. Họ bắt đầu chơi nhạc, thế rồi đột nhiên cả khán phòng đong đầy một âm thanh duy nhất – thứ âm thanh ba chiều sống động nhất tôi từng nghe. Nó khiến tôi dựng tóc gáy, hơi thở nghẹn lại trong cổ họng.
Will nhìn sang tôi, gương mặt anh vẫn mang nét giỡn chơi như mấy phút trước. Okay, vẻ mặt ấy nói. Chúng ta sẽ thưởng thức thứ này.
Vị nhạc trưởng đứng lên, vỗ hai cái vào bục phát biểu, sự im lặng càng sâu hơn. Tôi cảm thấy sự tĩnh tại, cả khán phòng háo hức chờ mong. Rồi ông đưa cây gậy xuống và đột nhiên tất cả chỉ còn lại âm thanh thuần khiết. Tôi cảm thấy âm nhạc như một thực thể; nó không chỉ nằm trong tai tôi, nó trườn vào trong tôi, bao phủ quanh tôi, khiến mọi giác quan ngân rung. Nó khiến tôi sởn gai ốc và lòng bàn tay tôi ướt đẫm. Will đã không hề mô tả về buổi hòa nhạc như thế này. Tôi đã nghĩ chắc chắn tôi sẽ thấy chán. Không ngờ nó lại là thứ đẹp đẽ nhất tôi từng nghe.
Và nó khiến trí tưởng tượng của tôi phiêu du ngoài mong đợi; khi tôi ngồi đó, tôi thấy mình nghĩ tới những điều bao nhiêu năm rồi tôi chưa từng nghĩ, những cảm xúc cũ xưa trào sôi trong tôi, những ý tưởng và tâm tư mới dâng lên như thể bản thân tri giác của tôi đang xáo động dữ dội. Nó dường như bao la, nhưng tôi không muốn ngăn nó lại. Tôi muốn ngồi như thế mãi. Tôi lén nhìn sang Will. Anh đang mê ly, bỗng như vô thức. Tôi quay đi, đột nhiên sợ phải nhìn anh. Tôi sợ nghĩ tới những gì anh đang cảm nhận, sự mất mát vô bờ, nỗi sợ hãi khôn dò. Cuộc sống của Will Traynor thật quá xa so với những trải nghiệm trên đời của tôi. Tôi là ai mà có quyền nói với anh rằng lẽ ra anh phải khát sống cuộc đời đó chứ?
Bạn Will gửi lời nhắn mời chúng tôi cuối buổi vào sau sân khấu gặp anh, nhưng Will không muốn. Tôi giục anh một lần, nhưng nhìn cơ hàm siết chặt của anh, tôi biết chắc anh sẽ không lay chuyển. Tôi không thể trách anh. Tôi nhớ lại cách người bạn làm ăn cũ đã nhìn anh ngày hôm đó – hòa trộn giữa thương hại, khiếp sợ, và đâu đó là cảm giác giải thoát sâu sắc, vì chẳng hiểu sao bản thân họ đã thoát được khỏi cú đòn riêng biệt này của số phận. Tôi nghĩ anh chỉ có thể chịu đựng chừng đó những buổi gặp gỡ kiểu ấy thôi.
Chúng tôi chờ cho tới khi mọi người về hết, rồi tôi đẩy Will ra, đi thang máy xuống bãi đỗ xe, rồi đưa Will lên ô-tô mà không gặp trở ngại nào. Tôi không nói gì nhiều; đầu tôi vẫn reo vang vì âm nhạc, và tôi không muốn nó phai đi. Tôi vẫn nghĩ hoài về buổi biểu diễn, về cách bạn Will chìm đi trong tiếng đàn anh chơi. Trước đây tôi không nhận ra âm nhạc có thể mở khóa mọi thứ trong ta, có thể đưa ta tới những nơi mà ngay cả người soạn nhạc cũng không lường trước được. Nó để lại dấu chân in hằn trong không khí quanh ta, như thể khi ra về ta mang dư vị của nó theo mình. Một đôi khi, khi chúng tôi ngồi đó giữa khán phòng, tôi đã quên bẵng mất có Will ngồi bên cạnh.
Chúng tôi từng xe lại bên ngoài khu nhà phụ. Trước mặt chúng tôi, hiện rõ mồn một phía trên bức tường thành, tòa lâu đài đứng đó, tắm đẫm ánh trăng rằm, lặng lẽ nhìn xuống từ đỉnh đồi.
“Thế cô không thuộc lãnh địa nhạc cổ điển hả.” Tôi nhìn gương chiếu hậu. Will đang mỉm cười. “Chẳng thích nó tẹo nào cả.”
“Rõ rồi.”
“Tôi đặc biệt không thích đoạn gần cuối, khi cây đàn violin tự nó ngân lên lời ca.”
“Tôi biết cô không thích đoạn đó. Thực tình, cô ghét nó quá nên mắt cô đầy lệ.”
Tôi cười nhăn nhở với anh. “Tôi thích nó lắm,” tôi nói. “Tôi không chắc mình sẽ thích mọi loại nhạc cổ điển, nhưng tôi nghĩ âm nhạc hôm nay quả là kỳ diệu.” Tôi xoa mũi. “Cảm ơn. Cảm ơn vì đã đưa tôi đi nghe.”
Chúng tôi ngồi yên lặng, nhìn lên tòa lâu đài. Bình thường vào đêm, nó tắm trong ánh sáng vàng cam của những ngọn đèn lác đác quanh bức tường thành. Nhưng đêm nay, dưới vầng trăng mười sáu, dường như tòa lâu đài ngập một sắc xanh siêu phàm.
“Anh nghĩ người ta đã chơi loại nhạc nào ở đó?” tôi nói. “Chắc họ đã từng nghe loại nhạc nào đó chứ.”
“Tòa lâu đài ấy hả? Nhạc cụ thời trung đại. Đàn luýt, đàn dây. Không phải thứ tôi rành, nhưng tôi có vài thứ có thể cho cô mượn, nếu cô thích. Cô nên nhét tai nghe vào tai rồi dạo bộ quanh lâu đài, nếu cô muốn trải nghiệm vẹn tròn.”
“Không. Tôi chẳng thích tới lâu đài.”
“Luôn là thế đấy, bụt chùa nhà không thiêng.”
Tôi trả lời vu vơ. Chúng tôi ngồi yên lặng một lát lâu hơn, lắng nghe tiếng máy rù rù nhỏ dần rồi im bặt.
“Thôi,” tôi nói, mở khóa an toàn. “Tốt hơn tôi nên đưa anh vào nhà. Công việc cần làm buổi tối đang chờ.”
“Chờ một phút thôi, Clark.”
Tôi quay người trên ghế. Mặt Will chìm trong bóng tối nên tôi không trông ra.
“Cứ ngồi yên. Một phút thôi.”
“Anh ổn không?” Tôi thả mắt xuống chiếc xe lăn, lo sợ rằng phần nào đó trên cơ thể anh bị kẹp, bị mắc kẹt, lo sợ tôi đã làm sai điều gì.
“Tôi ổn. Tôi chỉ…”
Tôi thấy được cổ áo sáng màu của anh, bộ suit đen tương phản với nó.
“Chỉ là tôi chưa muốn vào nhà. Tôi chỉ muốn ngồi và không phải nghĩ về…” Anh nuốt khan.
Dù trong không gian tranh tối tranh sáng, mọi thứ dường như vẫn thật khó nói.
“Tôi chỉ… muốn là một người đàn ông vừa đi nghe nhạc về cùng một cô gái mặc váy đỏ. Chỉ thêm vài phút nữa thôi.”
Tôi buông tay nắm trên cửa xe. “Được mà.”
Tôi nhắm mắt, ngả đầu lên tấm nệm trên thành ghế, và chúng tôi ngồi cùng nhau thêm một lúc thật lâu, hai con người lạc trong hồi ức âm nhạc, gần như ẩn mình dưới bóng của tòa lâu đài trên đồi trăng.
Chị em tôi chưa bao giờ nói chuyện rõ ràng về những gì đã xảy ra trong mê cung đêm đó. Mà thực tình tôi không biết chúng tôi phải nói gì nữa. Nó khẽ đỡ tôi dậy, rồi giúp tôi tìm quần áo, sau đó nỗ lực tuyệt vọng tìm kiếm đôi giày của tôi trong bụi rậm cho tới khi tôi bảo nó đừng bận tâm nữa. Dù sao tôi cũng sẽ chẳng bao giờ đi lại đôi giày ấy. Thế rồi chúng tôi chậm rãi đi về nhà – tôi đi chân trần, nó quàng tay qua tay tôi, dù chúng tôi đã không đi với nhau như thế kể từ ngày nó vào lớp một, và mẹ tôi cứ khăng khăng rằng tôi không bao giờ để nó khoác tay.
Khi về tới nhà, chúng tôi đứng trên thềm, nó vuốt tóc tôi, chùi mắt cho tôi bằng miếng khăn giấy ướt, rồi chúng tôi mở khóa cửa trước và bước vào như thể chẳng có chuyện gì xảy ra.
Bố vẫn còn thức xem bóng đá. “Hai cô con gái về hơi trễ đấy nhé,” ông gọi với ra. “Bố biết hôm nay là thứ Sáu, nhưng mà…”
“Được rồi bố,” chúng tôi đồng thanh đáp to.
Hồi đó, phòng riêng của tôi là phòng mà hiện nay ông ngoại ở. Tôi đi nhanh lên lầu, và trước khi em gái kịp nói gì, tôi đóng cửa lại sau lưng.
Tuần sau đó, tôi cắt phéng tóc. Tôi trả vé máy bay. Tôi không đi chơi với đám bạn gái cùng trường cũ nữa. Mẹ quá chìm đắm trong nỗi buồn đau nên chẳng để ý gì, bố thì gọi sự thay đổi tâm trạng trong nhà và thói quen mới thường xuyên khóa cửa trong phòng riêng của tôi là “vấn đề phụ nữ”. Tôi đã hiểu ra mình là ai, đó là một người hoàn toàn khác cô gái cười khúc khích say xỉn với đám người lạ. Đó là người chẳng biết mặc cái gì có thể gọi là khêu gợi. Dù sao đi nữa, quần áo cũng chẳng phải là thứ lôi cuốn những gã tới nhậu trong quán Red Lion.
Cuộc sống trở lại bình thường. Tôi nhận việc ở hiệu cắt tóc, rồi quán Bánh Bơ, bỏ lại mọi điều phía sau lưng.
Từ ngày ấy tôi đã đi qua tòa lâu đài cả năm ngàn lần. Nhưng tôi không bao giờ đi vào mê cung nữa.
Chương 13
Patrick đứng bên mép đường, giậm chân chạy tại chỗ, chiếc áo phông và quần soóc Nike mới cứng của anh ôm sát vào chân tay bóng nhẫy. Tôi phải ghé qua chào để báo cho anh biết tôi không thể tham dự cuộc gặp của hội Triathlon Terrors tại quán rượu tối mai được. Nathan nghỉ làm nên tôi phải làm thay các công việc buổi tối cho Will.
“Đây là cuộc họp thứ ba mà em vắng mặt rồi.” “Thật thế sao?” Tôi đếm ngón tay. “Chắc đúng rồi.”
“Tuần sau em phải có mặt đấy. Sẽ bàn toàn bộ kế hoạch đi lại cho nhóm Xtreme Viking. Mà em cũng chưa nói với anh em muốn làm gì trong ngày sinh nhật.” Anh bắt đầu thực hiện các động tác co duỗi, nâng chân lên cao rồi ép ngực vào đầu gối. “Đi xem phim nhé? Anh không muốn ăn uống thịnh soạn, vì đợt này anh đang luyện tập.”
“À. Bố mẹ dự định tổ chức một bữa tối rất đặc biệt rồi.” Anh cầm một bên gót chân, hướng đầu gối xuống dưới đất.
Tôi không thể không để ý thấy cái chân đó của anh bắt đầu trở nên gân guốc một cách lạ lùng.
“Đó không phải là một bữa đi nhà hàng ăn tối đúng không?”
“Ôi, thì cũng chẳng phải một buổi xem phim. Nhưng dù sao em vẫn cảm thấy nên như vậy, Patrick. Mẹ đang hơi buồn.”
Treena đã đi từ cuối tuần trước (không thể mang theo chiếc túi du lịch in hình trái chanh của tôi – tôi đã lấy lại cái túi đêm trước hôm nó đi). Mẹ rất đau khổ; lần này thật sự tệ hơn rất nhiều so với lần đầu Treena đi học đại học.
Mẹ nhớ Thomas như rụng cánh tay. Đồ chơi của nó, vốn dĩ vứt đầy trên nền phòng khách trong suốt thời thơ ấu đã được đóng hộp cất đi. Không còn những thanh sôcôla hay hộp sữa nhỏ trong tủ. Bà không còn lý do để tới trường vào lúc ba giờ mười lăm chiều, không còn ai nói chuyện trên quãng đường ngắn ngủi trở về nhà. Trước đây, đó là khoảng thời gian duy nhất mẹ thật sự ra khỏi nhà mỗi ngày. Bây giờ thì mẹ hoàn toàn chẳng đi đâu nữa, ngoại trừ đi siêu thị hằng tuần với bố.
Mẹ dật dờ trong nhà suốt ba ngày trông như mất hồn, rồi mẹ bắt đầu dọn dẹp nhà đầu xuân với sự miệt mài khiến ông ngoại cũng phát hoảng. Ông rên khe khẽ phản đối khi mẹ cố gắng hút bụi dưới chiếc ghế mà ông đang ngồi hay khi gạt chổi trúng vào vai ông. Treena nói nó sẽ không về nhà trong vài tuần đầu tiên để Thomas có thời gian làm quen. Mỗi tối khi nó gọi về, mẹ nói chuyện với mẹ con nó rồi sau đó nằm trên giường khóc trọn nửa giờ đồng hồ.
“Mấy hôm nay em toàn phải làm việc muộn. Anh có cảm giác hầu như không thể gặp được em.”
“Ờ, còn anh thì lúc nào cũng luyện tập. Nhưng mà kiếm được khá tiền Patrick ạ. Em khó mà nói không với việc làm thêm giờ được.”
Anh không thể cãi lại điều đó.
Tôi đang kiếm được nhiều tiền hơn bất cứ thời điểm nào trong cuộc đời. Tôi đưa cho bố mẹ gấp đôi số tiền trước đây, hằng tháng để một ít vào tài khoản tiết kiệm, thế mà vẫn còn lại số tiền nhiều hơn số tôi cần tiêu. Một phần đó là vì tôi đã làm việc nhiều giờ đến nỗi chẳng bao giờ rời khỏi nhà Granta khi các cửa hiệu còn mở cửa. Một phần khác đơn giản là vì tôi thật sự không có nhu cầu tiêu pha gì nhiều. Những giờ rảnh rỗi có được tôi lên thư viện, tra cứu thông tin trên internet.
Có cả một thế giới sẵn sàng bày ra trước mắt tôi từ chiếc máy tính cá nhân đó, tầng tầng lớp lớp, và nó bắt đầu đem lại những điều đầy thú vị.
Bắt đầu là lá thư cảm ơn. Một vài ngày sau buổi hòa nhạc, tôi nói với Will rằng tôi định viết thư cảm ơn anh bạn nghệ sĩ violin của anh.
“Tôi đã mua một chiếc thiệp rất đẹp trên đường đến đây,” tôi nói. “Anh hãy nói cho tôi biết anh muốn nói gì để tôi viết vào. Tôi cũng mang theo cả một cái bút viết rất đẹp nữa.”
“Tôi không nghĩ vậy,” Will nói. “Sao cơ?”
“Cô nghe thấy tôi nói rồi đấy.”
“Anh không nghĩ vậy? Anh ấy đã giúp cho chúng ta ngồi hàng trên. Anh đã nói là thật tuyệt vời mà. Ít ra thì anh cũng có thể cảm ơn anh ấy chứ.”
Quai hàm của Will vẫn bất động, không di chuyển.
Tôi đặt bút xuống. “Hay anh chỉ quen với vệc người ta làm cho anh còn anh thì không cảm thấy mình phải làm gì cho người ta?”
“Cô không hiểu gì đâu Clark, cảm giác tức giận đến mức nào khi phải dựa vào một người khác để viết ra những lời của mình. Cái cụm từ ‘viết thay mặt cho’ thật… quá nực cười.”
“Thật sao? Rõ ràng là vẫn còn tốt hơn hoàn toàn chẳng nói gì mà,” tôi càu nhàu. “Dù sao tôi cũng sẽ cảm ơn anh ấy. Tôi sẽ không đề cập đến tên anh, nếu anh thật sự muốn làm một thằng tồi trong chuyện này.”
Tôi viết tấm thiệp rồi gửi đi. Tôi không nhắc gì đến chuyện đó nữa. Nhưng tối hôm đó, những lời nói của Will cứ vang lên trong đầu tôi, tôi vùi đầu trong thư viện, tra cứu trên một chiếc máy tính còn trống, tôi truy cập internet. Tôi tìm kiếm xem có loại thiết bị nào Will có thể sử dụng để tự mình viết ra được không. Trong một tiếng đồng hồ tôi tìm ra được ba loại – một loại là phần mềm nhận biết giọng nói, một loại phần mềm khác dựa trên cái nháy mắt và, như em gái tôi đã từng đề cập, một loại thiết bị gõ đeo trên đầu.
Tất nhiên anh xem thường chẳng thèm quan tâm đến cái thiết bị gắn vào đầu nhưng thừa nhận rằng phần mềm nhận biết tiếng nói có thể rất hữu ích, thế nên trong vòng một tuần, cùng với sự giúp đỡ của Nathan, chúng tôi đã nỗ lực cài phần mềm này vào máy tính của anh, thiết lập cho anh để với chiếc khay đặt máy tính gắn vào xe lăn, anh không còn phải cần đến một ai đó khác đánh máy giúp mình. Ban đầu anh hơi lúng túng, nhưng sau khi tôi hướng dẫn anh để bắt đầu mọi thứ với nó, “Nhận thư này, cô Clark,” anh đã làm được.
Ngay cả bà Traynor cũng không tìm ra lý do gì để phàn nàn. “Nếu có bất kỳ loại thiết bị nào mà cô nghĩ có thể cần thiết,” bà nói, hai môi vẫn mím lại giống như thể bà không tin nó là một thứ thật sự tốt, “hãy nói cho chúng tôi biết.” Bà nhìn Will một cách căng thẳng như thể anh sắp vặn món đồ đó ra bằng quai hàm đến nơi.
Ba ngày sau đó, đúng lúc tôi chuẩn bị đi làm, người đưa thư trao cho tôi một lá thư. Tôi mở thư trên xe buýt, nghĩ rằng nó có thể là một tấm thiệp mừng sinh nhật sớm của một người họ hàng nào đó ở xa. Thư được viết bằng chữ đánh máy:
Gửi cô Clark,
Thư này để cho cô thấy rằng tôi không hẳn là một thằng tồi ích kỷ. Và tôi thật sự đánh giá cao nỗ lực của cô.
Cảm ơn. Will
Tôi cười lớn tới nỗi bác tài xế xe buýt phải hỏi xem có phải tôi trúng số không.
Sau những năm sống trong cái gác lửng, quần áo phải treo trên một thanh ngang ở bên ngoài hành lang, căn phòng của Treena mang lại cảm giác như một cung điện. Đêm đầu tiên ở trong căn phòng đó, tôi đã dang rộng tay quay vòng quanh chỉ để hưởng cảm giác sung sướng khi không thể chạm cả hai bức tường cùng một lúc. Tôi đến cửa hàng tự phục vụ để mua sơn và rèm cửa mới, cùng với một chiếc đèn ngủ và vài cái giá mà tôi thấy hợp với mình. Không phải bởi vì tôi giỏi những công việc này; tôi nghĩ chỉ là tôi muốn xem liệu tôi có thể làm được không.
Tôi bắt tay vào trang trí lại, quét sơn mỗi buổi tối một tiếng đồng hồ khi trở về nhà sau giờ làm việc và đến cuối tuần ngay cả bố tôi cũng phải công nhận tôi đã làm thực sự rất tốt. Ông nhìn chằm chằm một lúc vào những đường sơn tôi quét, chỉ vào những tấm rèm mà tôi đã tự treo và đặt tay lên vai tôi. “Con làm việc này giỏi lắm, Lou.”
Tôi mua một chiếc chăn lông vịt mới, một tấm thảm và vài chiếc gối ôm ngoại cỡ – đề phòng trường hợp có ai đó ghé qua phòng và muốn dựa người. Nói vậy không có nghĩa có người nào muốn ghé phòng tôi. Cuốn lịch được treo ở phía sau cánh cửa mới. Không ai nhìn thấy nó ngoại trừ tôi. Dù sao chẳng có ai khác có thể hiểu được ý nghĩa của nó.
Tôi cảm thấy mình hơi tệ vì sự thật là một khi đã đặt chiếc giường xếp của Thomas bên cạnh giường của Treena trên căn gác lửng thì sẽ chẳng còn chút không gian nào nữa, nhưng rồi tôi tự giải thích – mẹ con nó thực ra đâu còn sống ở đây. Và gác lửng cũng chỉ là nơi để ngủ thôi. Chẳng có lý do gì để trống căn phòng rộng rãi này suốt cả tuần.
Hằng ngày đi làm tôi vẫn nghĩ về những nơi khác nữa mà tôi có thể đưa Will đến. Tôi chưa có một kế hoạch lớn nào, tôi chỉ tập trung vào việc mỗi ngày đưa anh ra khỏi nhà đi loanh quanh và cố gắng làm anh cảm thấy hạnh phúc. Cũng có những ngày – những ngày khi mà tay chân anh đau đớn hoặc khi những vết thương nhiễm trùng, anh nằm sốt khốn khổ trên giường – khó khăn hơn những ngày khác. Nhưng trong những ngày khả quan hơn tôi cố gắng đưa anh ra ngoài ngắm ánh nắng mùa xuân nhiều lần. Tôi biết giờ đây một trong những điều mà Will ghét nhất là sự thương hại của người lạ, vậy nên tôi chở anh đến những cảnh đẹp trong vùng, nơi mà có những khi trong khoảng chừng một tiếng đồng hồ chỉ có hai chúng tôi. Tôi tạo ra những cuộc picnic để chúng tôi được ngồi ngoài trời, bên rìa những cánh đồng, chỉ để hưởng những làn gió mát và rời xa khu nhà phụ.
“Bạn trai tôi muốn gặp anh,” tôi nói với anh vào một buổi chiều khi đang cắt nhỏ những mẩu pho mát và sandwich nhân dưa leo muối cho anh.
Tôi đã lái xe nhiều dặm ra ngoài thị trấn, lên một ngọn đồi, từ đó chúng tôi có thể nhìn thấy tòa lâu đài ở bên kia, cách chúng tôi những cánh đồng chăn cừu.
“Tại sao?”
“Anh ấy muốn biết tôi đang ở cùng ai vào tất cả những buổi tối muộn.” Thật lạ lùng, tôi có thể thấy anh cảm nhận điều này khá thú vị.
“Ông Chạy.”
“Tôi nghĩ bố mẹ tôi cũng muốn.”
“Tôi thấy căng thẳng khi có một cô gái nói cô ấy muốn tôi gặp bố mẹ cô ấy đấy nhé. Nhưng mà mẹ cô dạo này thế nào?”
“Vẫn thế.”
“Công việc của bố cô thì sao? Có gì mới không?”
“Không. Tuần sau có tin, hiện giờ họ trả lời với ông ấy như vậy. Dù sao bố mẹ tôi vẫn hỏi tôi có muốn mời anh đến tham dự tiệc sinh nhật tôi vào tối thứ Sáu không? Mọi người đều rất thoải mái. Chỉ có gia đình thôi. Nhưng tốt rồi… tôi nói là anh sẽ không muốn đến đâu.”
“Ai bảo tôi sẽ không muốn đến?”
“Anh ghét người lạ. Anh không thích ăn trước mặt mọi người. Anh cũng không ưa gì bạn trai của tôi. Chẳng cần suy nghĩ nhiều tôi cũng biết rồi.”
Giờ đây tôi đã hiểu được Will. Cách tốt nhất để khiến Will làm một việc gì đó là nói với anh rằng tôi biết anh không muốn làm việc ấy đâu. Phần tính cách bướng bỉnh, chống đối trong anh sẽ không chịu được điều đó.
Will suy nghĩ một lát. “Không. Tôi sẽ đến dự sinh nhật cô. Phải cho mẹ cô điều gì đó để quan tâm chứ, nếu bà không còn mối quan tâm nào khác nữa.”
“Thật chứ? Ôi Chúa ơi, nếu tôi nói ra mẹ sẽ bắt đầu đánh chùi lau dọn từ đêm nay cho coi.”
“Cô có chắc đó là mẹ đẻ của cô không đấy? Chẳng phải là mẹ con thì phải có tí giống nhau di truyền nào sao? Cho miếng sandwich nữa đi cô Clark. Thêm một ít dưa leo muối nhé.”
Chỉ một nửa trong câu nói của tôi là đùa. Mẹ tôi vô cùng bối rối với ý nghĩ phải tiếp một vị khách bị liệt tứ chi. Bà đưa tay ôm lấy mặt rồi bắt đầu sắp xếp lại đồ đạc trên tủ như thể anh sẽ đến ngay trong vòng vài phút sau khi tôi nói với bà.
“Nhưng phải làm thế nào nếu cậu ấy muốn đi vệ sinh? Nhà mình làm gì có phòng tắm ở tầng trệt. Mẹ không nghĩ là một mình bố có thể bưng được cậu ấy lên lầu đâu. Mẹ có thể giúp… nhưng mẹ hơi lo không biết đặt tay vào chỗ nào. Patrick làm việc đó được không?”
“Mẹ không cần phải lo lắng về những việc như vậy đâu. Thật đấy.”
“Thế còn thức ăn cho cậu ấy? Cậu ấy có cần những món nghiền không? Có món gì cậu ấy không ăn được không?”
“Không, anh ấy chỉ cần đút thức ăn thôi.” “Ai làm việc đó?”
“Con làm. Thoải mái đi mẹ. Anh ấy rất dễ thương. Mẹ sẽ thích anh ấy.”
Và mọi thứ đã được sắp xếp xong. Nathan đưa Will lên xe, chở anh đến rồi quay lại đón anh sau hai tiếng và tiếp tục công việc hằng đêm. Tôi đã đề nghị để tôi làm, nhưng cả hai người khăng khăng tôi nên “thảnh thơi hoàn toàn” trong ngày sinh nhật của mình. Họ rõ ràng là chưa hiểu gì về bố mẹ tôi.
Đúng chính xác bảy giờ ba mươi phút tối, tôi mở của chính để đón Will và Nathan ở ngoài cổng trước. Will mặc áo sơ-mi và vét-tông lịch sự. Tôi không biết nên vui vì anh đã rất nỗ lực hay nên lo lắng vì mẹ tôi sẽ phải trải qua hai giờ đồng hồ đầu tiên của buổi tối băn khoăn không biết bà ăn mặc đủ lịch sự chưa.
“Chào anh,”
Bố chạy vội ra đường ngay sau tôi. “Aha. Các anh xem đường trượt này đã ổn chưa?” Bố đã hì hục suốt cả buổi chiều để làm tấm ván trượt nhỏ cho bậc tam cấp bên ngoài.
Nathan cẩn thận điều chỉnh chiếc xe lăn của Will lên con đường vào chật hẹp của nhà tôi. “Tốt lắm,” Nathan nói khi tôi khép cửa nhà lại sau lưng ông. “Rất tốt. Tôi thấy mấy đường trượt trong bệnh viện đâu có được như vầy.”
“Bernard Clark.” Bố đưa tay ra bắt tay Nathan. Ông đưa tay về phía Will rồi vội rút lại với một thoáng giật mình bối rối. “Ber… nard. Xin lỗi, ừm… tôi không biết làm thế nào để chào một… tôi không thể bắt tay cậu…” Ông bắt đầu nói lắp bắp.
“Một cái cúi chào là tốt rồi.”
Bố tôi nhìn anh chằm chằm rồi sau đó khi nhận ra Will nói đùa, ông cười to đầy nhẹ nhõm. “Haha!” ông vừa nói vừa vỗ vỗ lên vai Will. “Phải, phải. Cúi đầu chào. Ý hay lắm. Haha!”
Chuyện đó phá tan không khí lạnh lẽo. Nathan rời nhà tôi với một cái vẫy tay chào và nháy mắt, sau đó tôi đẩy Will xuống gian bếp. Mẹ tôi, thật may mắn làm sao, đang bưng một nồi thức ăn nên bà tránh được tình huống bối rối tương tự.
“Mẹ, đây là Will. Will, mẹ tôi Josephine.”
“Hãy gọi tôi là Josie.” Bà tươi cười nhìn Will, đôi găng tay nhắc nồi dài lên tận khuỷu. “Thật vui khi cuối cùng cũng được gặp cậu, Will.”
“Rất vui được gặp bác,” anh nói. “Đừng để cháu làm bác gián đoạn.”
Bà đặt chiếc nồi xuống rồi đưa tay vuốt tóc, một hành động quen thuộc của mẹ tôi. Mỗi khi bối rối bà không thể nhớ nổi phải bỏ găng tay ra trước đã.
“Xin lỗi,” bà nói. “Món nướng. Mọi thứ phải làm đúng giờ, cậu biết rồi đấy.”
“Cháu không rõ lắm đâu,” Will nói. “Cháu không biết nấu ăn. Nhưng cháu rất thích các món ngon. Đó là lý do vì sao cháu rất chờ tối nay.”
“Thế…” bố tôi mở cửa tủ lạnh. “Chúng ta phải làm thế nào được nhỉ? Cậu có chiếc… cốc uống bia đặc biệt nào không, Will?”
Tôi nói với Will, nếu phải trường hợp bố, ông sẽ kiếm một chiếc cốc uống bia phù hợp trước khi kiếm xe lăn.
“Phải hưởng quyền ưu tiên của ta chứ,” bố nói. Tôi tìm được trong túi xách của Will chiếc cốc bê-se của anh.
“Bia sẽ rất tuyệt. Cảm ơn bác.”
Anh uống một ngụm còn tôi đứng trong gian bếp, đột nhiên để ý đến căn nhà bé nhỏ tồi tàn của chúng tôi với những tờ giấy dán tường từ thập niên 80 và những chiếc tủ bếp sứt mẻ. Nhà Will được lắp đặt nội thất sang trọng, không gian rộng rãi và đẹp mắt. Nhà chúng tôi trông giống như 90 phần trăm đồ đạc được lấy ra từ cửa hàng từ thiện trong thị trấn. Những tấm tranh vẽ quăn queo của Thomas dán đầy mọi khoảng trống trên bức tường. Không biết có để ý không, nhưng Will chẳng nói gì. Anh và bố tôi đã nhanh chóng tìm thấy một chuyện quan tâm chung đó là sự vô tích sự của tôi. Tôi không phật lòng. Câu chuyện đó làm cả hai người thích thú.
“Cậu biết không, nó đã từng lùi xe đâm phải cọc buộc thuyền và thề rằng đó là lỗi của cái cọc…”
“Bác phải xem cô ấy hạ tấm ván trượt cho cháu ấy. Đôi khi thật chẳng khác gì người ta trượt tuyết từ xe hơi ra vậy…”
Bố tôi cười phá lên.
Tôi để mặc hai người với câu chuyện đó. Mẹ theo tôi ra ngoài vẻ bực bội. Bà đặt một khay đựng cốc lên bàn ăn rồi nhìn đồng hồ chằm chằm. “Patrick đâu rồi?”
“Anh ấy sẽ đến thẳng đây từ chỗ luyện tập,” tôi nói. “Có lẽ anh ấy bị kẹt xe.” “Nó không thể nghỉ một hôm vào sinh nhật con được à? Món gà sẽ hỏng mất nếu nó còn đến muộn nữa.” “Mẹ à, sẽ ổn thôi mà.”
Tôi chờ mẹ đặt khay cốc xuống rồi vòng tay ôm bà. Người mẹ đang gồng lên vì lo lắng. Tôi đột nhiên cảm thấy trỗi lên lòng cảm thương với mẹ. Cuộc sống của mẹ tôi thật chẳng dễ dàng gì.
“Ừ phải. Sẽ ổn thôi.”
Mẹ buông tôi ra, hôn lên đầu tôi rồi cọ hai bàn tay vào tạp dề. “Mẹ ước gì có em gái con ở đây. Thật buồn khi lễ sinh nhật mà không có nó.”
Với tôi thì không có nó chẳng sao hết. Chỉ một lần thôi, tôi được hưởng trọn vẹn cảm giác làm trung tâm của sự chú ý. Nghe quá trẻ con nhưng đó lại là sự thật. Tôi hạnh phúc khi Will và bố cười đùa về chuyện của tôi. Tôi hạnh phúc vì tất cả các món ăn của bữa tối – từ món gà rán đến kem sô-cô-la – đều là món yêu thích của tôi. Tôi thích cảm giác mình có thể làm con người mình muốn mà không có giọng nói của cô em gái gợi nhắc rằng tôi đã như thế nào.
Chuông cửa vang lên, mẹ tôi vỗ vỗ hai tay. “Cậu ấy đến đây rồi. Lou, sao con không bắt đầu dọn bàn ăn đi?”
Patrick mặt vẫn còn đỏ bừng vì những nỗ lực trên đường tập. “Chúc mừng sinh nhật, em yêu,” anh nói, cúi người hôn tôi. Anh toát ra mùi nước hoa cạo râu, lăn khử mùi và hương thơm ấm áp của làn da mới tắm xong.
“Tốt nhất là anh nên đi vào luôn đi.” Tôi hất đầu về phía phòng khách. “Mẹ sắp hết kiên nhẫn với chuyện thời gian rồi đấy.”
“Ồ.” Anh nhìn xuống đồng hồ. “Xin lỗi. Chắc quên để ý thời gian.” “Dù sao thì cũng không phải thời gian của anh, nhỉ?”
“Sao cơ?”
“Chẳng có gì.”
Bố đưa chiếc bàn xếp lớn ra phòng khách. Dưới sự hướng dẫn của tôi, bố cũng kéo một trong những chiếc sofa áp sang bức tường khác để Will có thể vào phòng mà không gặp trở ngại nào. Anh điều khiển xe lăn vào vị trí mà tôi đã chỉ rồi tự nâng xe lên một chút để có chiều cao ngang với tất cả mọi người. Tôi ngồi phía bên trái anh còn Patrick ngồi đối diện. Anh và Will và ông ngoại gật đầu chào nhau. Tôi đã nhắc nhở Patrick từ trước là không được bắt tay. Dù đã ngồi xuống, tôi vẫn có thể cảm thấy Will đang dò xét Patrick và tôi thoáng băn khoăn tự hỏi không biết anh có cuốn hút được bạn trai tôi giống như anh đã tạo được với bố mẹ tôi không.
Will quay đầu về phía tôi. “Nếu cô tìm ở phía sau lưng xe, sẽ có một thứ nho nhỏ cho bữa tối đấy.”
Tôi dựa người ra sau và với tay vào chiếc túi của anh. Tôi ngồi thẳng lại, lấy ra một chai sâm-banh Laurent-Perrier.
“Cô luôn phải có sâm-banh trong ngày sinh nhật của mình đấy nhé,” anh nói. “Ôi, xem kìa,” mẹ thốt lên khi bưng những đĩa thức ăn vào. “Tuyệt quá!
Nhưng chúng ta không có ly uống sâm-banh.”
“Những chiếc ly này là được rồi ạ,” Will nói.
“Để tôi mở.” Patrick với tay lấy chai rượu, tháo dây sắt quanh cổ chai rồi đặt hai ngón tay cái bên dưới nút chai. Anh vẫn liên tục liếc về phía Will như thể anh chẳng chờ đợi sự có mặt của Will chút nào.
“Nếu anh làm như thế,” Will nói, “nó sẽ tóe ra khắp nơi đấy.” Anh nâng cánh tay lên được khoảng vài phân, làm một cử chỉ mơ hồ. “Tôi thấy nên giữ chiếc nút rồi quay quay chai rượu xem ra sẽ an toàn hơn.”
“Phải có ai đó biết cách mở chai sâm-banh này chứ,” bố nói. “Cháu làm đi, Patrick. Cậu nói gì nhỉ, quay quay cái chai đúng không? Ai biết cách làm?”
“Cháu biết,” Patrick nói. “Cháu đã định làm như vậy mà.”
Chai sâm-banh nổ bốp và phun lên một cách an toàn, buổi sinh nhật của tôi được nâng cốc chúc mừng.
Ông ngoại gọi to lên một tiếng gì đó nghe như là, “Nghe nào, nghe nào.”
Tôi đứng dậy cúi đầu. Tôi đang mặc chiếc váy chữ A màu vàng của thập niên 1960 kiếm được ở cửa hàng từ thiện. Cô bán hàng cho rằng nó có thể là đồ của hãng Biba tuy nhiên mác váy đã bị cắt.
“Chúc cho năm nay cuối cùng Lou của chúng ta cũng trưởng thành,” bố nói. “Tôi muốn nói là ‘làm được điều gì đó với cuộc đời của nó’ nhưng hình như sau cùng nó đã làm rồi. Tôi phải nói với cậu, Will ạ, kể từ khi làm việc cho cậu nó đã – phải, nó đã thật sự thoát ra được khỏi chính mình.”
“Hai chúng tôi rất tự hào,” mẹ nói. “Và biết ơn. Tới cậu. Vì đã tuyển nó, ý tôi là vậy.”
“Cháu phải biết ơn mới phải chứ ạ,” Will nói. Anh liếc về phía tôi. “Chúc mừng Lou,” bố nói. “Chúc con tiếp tục thành công.”
“Chúc cả những thành viên gia đình vắng mặt,” mẹ nói.
“Ôi trời ơi,” tôi nói. “Con phải tổ chức sinh nhật thường xuyên hơn mới được. Hầu như ngày nào tất cả mọi người cũng chỉ biết mắng mỏ con thôi.”
Mọi người bắt đầu nói chuyện, bố kể cho mọi người nghe vài câu chuyện khác nữa về tôi làm cả bố và mẹ cười rất to. Thật vui khi được nhìn bố mẹ cười. Mấy tuần vừa rồi trông bố đã rất suy sụp còn mẹ thì hai mắt trũng sâu và thẫn thờ giống như đang ở một nơi nào khác. Tôi muốn hưởng thụ những giây phút này khi bố mẹ thoáng quên đi những nỗi niềm của mình, được chia sẻ những chuyện đùa vui và tình thương mến gia đình. Trong một lát tôi nhận ra tôi sẽ không chút phiền lòng nếu Thomas có mặt ở đây. Hay cả Treena nữa.
Tôi đã quá chìm vào ý nghĩ của mình đến nỗi phải mất cả phút đồng hồ mới nhận ra cảm xúc của Patrick. Tôi đang đút cho Will ăn trong lúc nói chuyện với ông ngoại, nhón một miếng cá hồi xông khói đặt vào miệng Will. Giờ đây đó là một phần vô thức trong cuộc sống thường nhật của tôi, thế nên tôi chỉ giật mình nghĩ tới cử chỉ gần gũi đó khi tôi nhìn thấy vẻ kinh ngạc trên gương mặt Patrick.
Will đang nói chuyện gì đó với bố còn tôi nhìn chằm chằm vào Patrick, hi vọng anh sẽ dừng lại. Bên tay trái anh, ông ngoại ăn từng miếng trên đĩa rất thích thú, phát ra những tiếng nhai mà gia đình tôi vẫn gọi là “tiếng kêu của thức ăn” – những tiếng rột roạt và chóp chép khe khẽ vui tai.
“Món cá hồi ngon lắm,” Will nói với mẹ tôi. “Mùi vị rất tuyệt vời.”
“Vậy à, đây không phải là món ăn mà gia đình tôi có thể ăn hằng ngày đâu,” mẹ tôi mỉm cười nói. “Nhưng tôi rất muốn ngày hôm nay thật đặc biệt.”
Thôi nhìn đi, tôi âm thầm ra hiệu cho Patrick.
Sau cùng, anh nhìn vào mắt tôi rồi quay đi. Trông anh rất tức giận.
Tôi đút cho Will một miếng nữa rồi thêm một ít bánh mì khi tôi thấy anh liếc nhìn mẩu bánh. Trong giây phút đó tôi nhận ra mình đã nắm bắt được toàn bộ nhu cầu của Will đến mức tôi hầu như không cần nhìn mà vẫn biết được anh muốn gì. Patrick, ngồi đối diện, đang cúi đầu ăn, cắt cá hồi xông khói thành những miếng nhỏ rồi xiên chúng bằng dĩa. Anh trừ miếng bánh mì lại.
“Anh Patrick,” Will nói, có lẽ anh cảm nhận được sự không thoải mái của tôi. “Louisa nói với tôi anh là một người luyện tập chuyên nghiệp. Anh làm những gì?”
Tôi mong ước làm sao anh đừng hỏi câu đó. Patrick bắt đầu bài diễn văn quảng cáo bất tận của anh, về chuyện vận động cơ thể, rồi chuyện một cơ thể khỏe mạnh sẽ tạo ra một trí tuệ khỏe mạnh như thế nào. Rồi sau đó anh chuyển sang lịch luyện tập của anh cho nhóm Xtreme Viking – nhiệt độ của vùng Biển Bắc, tỉ lệ mỡ trong cơ thể thích hợp cho chạy marathon, những thời gian thích hợp nhất cho từng phương pháp luyện tập.
Tôi thường làm ngơ trước chủ đề này nhưng bây giờ, có Will ngồi bên cạnh, tất cả những gì tôi có thể nghĩ là chủ đề ấy không thích hợp đến mức nào. Tại sao anh không thể chỉ nói sơ sơ rồi bỏ qua chủ đề đó?
“Sự thật lúc Lou nói với tôi anh đến đây, tôi đã nghĩ tôi nên đọc qua mấy cuốn sách của tôi để xem coi có phương pháp vật lý trị liệu nào tôi có thể giới thiệu cho anh không.”
Tôi sặc rượu sâm-banh. “Đó là việc chuyên môn, Patrick. Em không chắc anh hiểu rõ được đâu.”
“Anh có thể làm chuyên gia mà. Anh đã gặp những chấn thương trong thể thao. Và đã được huấn luyện về trị thương.”
“Đây không phải là việc trẹo mắt cá chân, Pat. Không phải.”
“Có một người tôi đã làm việc cùng vài năm trước có khách hàng bị liệt hai chân. Anh ấy nói là bây giờ ông ta đã hoàn toàn bình phục. Có thể tham gia cuộc thi ba môn phối hợp và làm mọi việc.”
“Tuyệt thế,” mẹ tôi nói.
“Anh ấy chỉ cho tôi nghiên cứu mới này ở Canada cho rằng cơ bắp cũng có thể luyện tập để hồi nhớ lại những hoạt động trước đây. Nếu anh khiến chúng hoạt động đầy đủ, hằng ngày, thì cũng sẽ giống như một khớp thần kinh – có thể hồi phục được. Tôi cá với anh là nếu chúng ta chuẩn bị cho anh một chế độ luyện tập thật sự tốt, anh có thể thấy khác biệt trong việc gợi nhớ hoạt động của cơ bắp. Rốt cuộc, Lou cũng có nói với tôi trước đây anh đúng là một người đàn ông hành động mà.”
“Patrick,” tôi nói to lên. “Anh đâu có biết gì về chuyện này.” “Anh chỉ cố gắng để…”
“Thôi không cần. Thật đấy.”
Cả bàn ăn rơi vào im lặng. Bố tôi ho một tiếng rồi xin lỗi mọi người. Ông ngoại nhìn xung quanh bàn với sự im lặng đầy cảnh giác.
Mẹ làm bộ mời mọi người ăn thêm bánh mì rồi sau đó lại thôi.
Khi Patrick cất tiếng trở lại, có một thoáng ân hận mơ hồ trong giọng nói của anh. “Đó chỉ là nghiên cứu mà tôi nghĩ có thể sẽ có ích. Nhưng tôi sẽ không nói thêm gì nữa.”
Will ngước lên mỉm cười, gương mặt anh không cảm xúc, rất lịch sự. “Tôi chắc chắc sẽ lưu ý điều này.”
Tôi đứng dậy để dọn những chiếc đĩa, muốn thoát ra khỏi bàn ăn. Nhưng mẹ quát tôi, bắt phải ngồi xuống.
“Con là chủ buổi lễ sinh nhật,” bà nói như thể bà chịu để cho ai đó khác nhúng tay vào việc gì không bằng. “Bernard. Sao anh không vào mang món gà ra nhỉ?”
“Ha ha. Hy vọng là nó không còn bay phành phạch vòng quanh nữa nhỉ?” Bố mỉm cười, hàm răng nhe ra thành một nụ cười nhăn nhở.
Phần còn lại của bữa ăn trôi qua mà không gặp rắc rối nào. Tôi có thể nhận thấy bố mẹ tôi đã hoàn toàn bị Will chinh phục. Patrick thì không. Anh và Will hầu như không nói với nhau thêm câu nào. Vào khoảng lúc mẹ đem món khoai tây nướng ra – bố đang làm trò quen thuộc là cố gắng chôm thêm ít miếng – tôi đã thôi lo lắng. Bố hỏi Will đủ thứ chuyện trên đời, về cuộc sống của anh trước đây, thậm chí cả về vụ tai nạn và anh dường như rất thoải mái trả lời thẳng thắn. Thực sự tôi đã biết được thêm khá nhiều điều mà anh không bao giờ nói với tôi. Ví như công việc của anh dường như hết sức quan trọng, dù anh đã nói giảm bớt đi. Anh mua bán các công ty và đảm bảo tạo ra lợi nhuận trong khi mua bán. Bố phải ép anh mới nói ra mức lợi nhuận lên tới sáu, bảy chữ số. Tôi nhìn Will chằm chằm, cố dung hòa con người mà tôi biết với thương nhân thành thị ghê gớm mà anh đang mô tả. Bố nói với anh về công ty sắp thâu tóm xưởng đồ gỗ gia dụng, khi bố nói tên của công ty đó Will đã gật đầu đầy vẻ thông cảm và nói vâng, anh có biết những công ty đó. Vâng, anh lẽ ra có thể cũng đã nhảy vào vụ đó. Qua cách anh nói thì dường như không có chút hy vọng nào cho công việc của bố tôi.
Mẹ chỉ thủ thỉ với Will và vô cùng quan tâm tới anh. Khi nhìn nụ cười của bà, tôi nhận ra, từ một lúc nào đó trong bữa ăn này anh đã trở thành chàng thanh niên hấp dẫn trước mắt mẹ tôi. Chẳng có gì lạ khi Patrick rất tức giận.
“Bánh sinh nhật đâu rồi?” ông ngoại hỏi khi mẹ bắt đầu dọn chén đĩa.
Câu hỏi đó thật bất ngờ và đáng ngạc nhiên, thế nên bố con tôi nhìn nhau sửng sốt. Cả bàn ăn rơi vào im lặng.
“Không có,” tôi chạy vòng qua bàn tới hôn ông. “Không có ông ạ. Cháu xin lỗi. Nhưng có kem sô-cô-la. Ông thích món này mà.”
Ông gật đầu đồng ý. Mẹ nở nụ cười rạng rỡ. Tôi không nghĩ có ai trong chúng tôi có thể có được một món quà ý nghĩa hơn nữa.
Kem sô-cô-la được đưa ra bàn cùng với một hộp quà lớn, vuông vắn, có kích cỡ khoảng bằng một cuốn danh bạ điện thoại, bọc trong giấy gói quà.
“Đến lúc mở quà rồi, phải không?” Patrick nói. “Đây. Đây là quà của anh.” Anh mỉm cười với tôi rồi đặt nó vào giữa bàn.
Tôi mỉm cười lại với anh. Xét cho cùng đây không phải lúc để tranh cãi. “Tiếp tục đi nào,” bố nói. “Mở quà đi.”
Tôi mở quà của bố mẹ trước tiên, tôi bóc lớp giấy bọc thật cẩn thận để không làm rách nó. Đó là một cuốn album ảnh mà trên mỗi trang có một tấm hình của mỗi năm trong cuộc đời tôi. Tôi lúc sơ sinh; tôi và Treena khi còn là những cô bé tiểu học mũm mĩm; tôi trong ngày đầu tại trường trung học, những chiếc kẹp tóc và chiếc váy rộng thùng thình. Gần đây hơn có một tấm hình của tôi và Patrick, thật tình trước khi chụp tấm hình đó tôi vừa nói anh cút đi. Và tôi, trong chiếc váy màu xám, ngày đầu tiên làm công việc mới. Ở giữa những trang ảnh đó là những tấm hình của gia đình tôi do Thomas chụp, những lá thư mẹ còn giữ từ những chuyến dã ngoại của trường học, những bản viết tay của tôi lúc còn bé kể về những ngày đi tắm biển, làm rơi những chiếc kem bị lũ mòng biển chôm mất. Tôi giở lướt qua và chỉ dừng lại một thoáng khi tôi nhìn thấy cô gái với mái tóc đen dài, thổi bồng phía sau. Tôi lật sang trang sau.
“Tôi có thể xem được không?” Will nói.
“Đây không phải là… năm tốt nhất,” mẹ tôi nói với anh khi tôi lật giở từng trang ảnh cho anh xem. “Ý mẹ là, chúng ta vẫn ổn cả. Nhưng, con biết đấy, mọi việc đã diễn ra như thế. Tuy nhiên ông ngoại con đã xem chương trình gì đó trên truyền hình về chuyện tự làm quà tặng, mẹ nghĩ đây là một thứ có thể… con biết đấy… thật sự có một ý nghĩa.”
“Nó rất ý nghĩa mà mẹ.” Mắt tôi rưng rưng. “Con thích lắm. Cảm ơn bố mẹ.” “Ông đã chọn một số tấm hình trong đó đấy,” mẹ nói.
“Rất đẹp bác ạ,” Will nói. “Con thích lắm,” tôi nói lại.
Ánh nhìn nhẹ nhõm như trút được mọi gánh nặng mà bố mẹ trao nhau là điều buồn bã nhất mà tôi từng thấy.
“Đến quà của anh nhé.” Patrick đẩy chiếc hộp nhỏ qua bàn. Tôi mở thật chậm, cảm thấy mơ hồ lo sợ khi mở ra nó sẽ là một chiếc nhẫn đính hôn. Tôi chưa sẵn sàng. Tôi chẳng mấy khi nghĩ được gì xa hơn việc có cho riêng mình một gian phòng ngủ. Tôi mở chiếc hộp nhỏ, và đây, nổi trên nền nhung xanh thẫm là một sợi dây chuyền vàng mỏng với mặt hình sao nhỏ xíu. Nó thật ngọt ngào, thanh nhã và chẳng có gì quen thuộc đối với tôi. Tôi không đeo loại trang sức đó, chưa bao giờ.
Tôi dừng đôi mắt lại trên món quà trong lúc cố nghĩ ra câu gì để nói. “Dễ thương quá,” tôi nói khi anh vươn người qua bàn và đeo vào cổ tôi.
“Thật vui vì em thích nó,” Patrick nói khi hôn vào môi tôi. Tôi thề trước đây anh chưa bao giờ hôn tôi như vậy trước mặt bố mẹ tôi.
Will nhìn tôi, gương mặt không cảm xúc.
“Rồi, bây giờ bố nghĩ chúng ta ăn kem sô-cô-la được rồi,” bố nói. “Trước khi nó bị nóng quá.” Bố cười to với câu đùa của chính mình. Rượu sâm-banh đã làm tinh thần bố phấn chấn lên không tả nổi.
“Tôi cũng có quà cho cô ở trong túi,” Will khẽ nói. “Túi treo sau xe tôi. Bọc giấy màu cam.”
Tôi lấy món quà ra khỏi túi Will.
Mẹ tôi ngưng lại, thìa kem nằm im trên tay bà.
“Cậu cũng mang quà cho Lou nữa hả Will? Cậu thật tốt quá. Cậu ấy thật tử tế đúng không Bernard?”
“Đúng như vậy.”
Tờ giấy gói quà có màu sắc rực rỡ như bộ váy truyền thống của người Trung Quốc. Tôi chẳng cần phải nhìn nó cũng biết rằng tôi sẽ giữ nó lại. Có thể thậm chí còn phải dùng nó để may cái gì đó mặc được nữa. Tôi tháo dây ruy băng, đặt sang một bên để sử dụng lần sau. Tôi mở giấy bọc rồi giấy lót trong đó, và đây, đập vào mắt tôi là hai đường sọc vàng đen quen thuộc một cách lạ lùng.
Tôi lôi miếng vải từ trong hộp ra và trong tay tôi là hai chiếc quần bó sọc vàng đen. Cỡ người lớn, óng ả, bằng chất len mềm đến nỗi chúng gần như trượt khỏi các ngón tay tôi.
“Không thể tin nổi,” tôi nói. Tôi bắt đầu cười lớn – một tiếng cười đầy vui sướng, món quà ngoài mong đợi. “Ôi Chúa ơi! Anh đã mua ở đâu ra vậy?”
“Tôi đã đặt làm đấy. Cô sẽ rất vui khi biết là tôi đã mô tả sản phẩm cho người ta qua phần mềm nhận dạng giọng nói mới tinh của tôi.”
“Quần bó?” Bố và Patrick đồng thanh nói. “Những chiếc quần bó tuyệt vời nhất trên đời.”
Mẹ nhìn chúng chằm chằm. “Con biết không, Louisa, mẹ nhớ chắc chắn là con đã từng có một đôi đúng y như thế này hồi con còn bé tí.”
Will và tôi trao cho nhau một cái nhìn.
Tôi không thể thôi cảm thấy vui sướng. “Để tôi mặc thử nó luôn nhé,” tôi nói.
“Chúa Jesus ơi, nó sẽ trông giống Max Wall chui trong một cái tổ ong,” bố tôi nói, lắc lắc đầu.
“Này anh Bernard, đây là sinh nhật con. Chắc chắn nó có thể mặc thứ gì nó muốn.”
Tôi chạy ra ngoài sảnh và mặc một chiếc quần bó vào. Tôi nhón chân, thích thú trước sự ngộ nghĩnh của chiếc quần. Tôi chưa bao giờ nghĩ một món quà có thể làm tôi hạnh phúc đến mức như vậy trong suốt cuộc đời mình.
Tôi quay trở lại phòng khách. Will reo lên một tiếng hoan hô khe khẽ. Ông ngoại đập mạnh hai tay xuống bàn. Bố mẹ tôi cười vang lên. Patrick chỉ nhìn chằm chằm.
“Tôi thậm chí không biết làm sao để nói với anh tôi thích những chiếc quần này đến mức nào,” tôi nói, “Cảm ơn. Cảm ơn anh.” Tôi đưa tay ra và chạm vào vai anh. “Rất thật lòng.”
“Có một tấm thiệp trong đó nữa,” anh nói. “Lúc khác hãy mở.” Bố mẹ tôi săn sóc Will rất ân cần khi anh ra về.
Bố trong lúc đã say, cứ cảm ơn anh mãi vì đã tuyển tôi và bắt anh phải hứa
sẽ quay lại nhà chơi. “Nếu tôi mà mất việc, có thể một ngày nào đó tôi sẽ đến xem bóng đá với cậu,” bố nói.
“Cháu mong như vậy,” Will trả lời, mặc dù tôi chưa bao giờ thấy anh xem bóng đá.
Mẹ tôi cố ép anh lấy một ít kem sô-cô-la còn dư lại để trong một chiếc hộp nhựa, “Tôi thấy cậu rất thích món này.”
Thật là một người đàn ông lịch thiệp, bố mẹ tôi vẫn nói mãi suốt một giờ đồng hồ sau khi anh đã ra về. Một quý ông thực thụ.
Patrick đi ra sảnh, hai tay thọc sâu vào túi quần, như thể để ngăn ý muốn bắt tay Will. Đó là suy luận sâu xa của tôi.
“Thật vui được gặp anh, Patrick,” Will nói. “Và cảm ơn anh vì… lời khuyên.”
“Ồ, đó chỉ là giúp đỡ bạn gái của tôi hoàn thành tốt nhất công việc của cô ấy thôi,” anh nói. “Chỉ vậy thôi.” Có một sự nhấn mạnh rất rõ ràng trong từ của tôi.
“Anh là một người đàn ông may mắn đấy,” Will nói trong lúc Nathan bắt đầu đẩy xe lăn ra ngoài. “Cô ấy thật sự biết tắm tại giường cho bệnh nhân giỏi lắm.” Anh nói nhanh đến mức cánh cổng đã đóng sầm lại trước khi Patrick kịp nhận ra anh đã nói gì.
“Em chưa bao giờ nói với anh là em có tắm cho anh ta.”
Chúng tôi cùng đi về nhà của Patrick, một căn hộ mới nằm ở ngoại vi thị trấn. Kiểu căn hộ này được quảng cáo là “phong cách loft”, mặc dù nó nhìn ra bãi đỗ xe và không cao quá ba tầng.
“Như vậy có nghĩa là sao – em rửa hạ bộ cho anh ta à?”
“Em không rửa hạ bộ cho anh ấy.” Tôi cầm lọ sữa rửa mặt vốn là một trong số rất ít đồ đạc mà tôi được phép để ở nhà Patrick lên rồi bắt đầu rửa mặt để loại bỏ lớp trang điểm.
“Anh ta vừa nói em làm đó thôi.”
“Anh ấy chọc tức anh đấy. Nhưng mà sau khi anh cứ liên tục, liên tục nói về việc anh ấy đã từng là một chàng trai hành động em cũng chẳng trách gì anh ấy.”
“Thế em làm gì cho anh ta? Rõ ràng là em không kể đầy đủ cho anh nghe.”
“Thật sự thì em có rửa cho anh ấy, đôi khi thôi, nhưng chỉ từ trên xuống đến ngang thắt lưng thôi.”
Cái nhìn chòng chọc của Patrick đã nói lên tất cả suy nghĩ của anh. Cuối cùng, anh quay mặt đi, lột đôi tất chân ném vào giỏ đồ giặt. “Công việc của em lẽ ra đâu có phải làm những việc đó. Nó đã ghi rõ không có vấn đề y tế. Không giúp việc cá nhân. Trong mô tả công việc không hề có thứ đó.” Một suy nghĩ bất ngờ đã đến trong đầu anh. “Em có thể phản đối. Từ chối khéo, anh nghĩ 1à như vậy, khi họ thay đổi các điều khoản trong công việc của em.”
“Đừng có buồn cười thế chứ. Em làm việc ấy bởi vì Nathan không thể luôn luôn có mặt ở đó và thật khổ sở cho Will khi có ai đó hoàn toàn xa lạ từ trung tâm dịch vụ đến để giúp cho anh ấy. Hơn nữa, bây giờ em cũng quen với việc đó rồi. Thật sự em không thấy phiền.”
Tôi làm sao có thể giải thích cho anh – cơ thể một con người có thể trở nên thân thuộc với mình như thế nào. Tôi có thể thay ống thông tiểu cho Will với sự khéo léo thành thạo, tắm bằng bọt khắp nửa thân trên của anh mà không làm gián đoạn cuộc trò chyện của chúng tôi. Giờ đây tôi thậm chí cũng không e sợ trước những vết sẹo của Will. Trong một khoảng thời gian, tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là một vụ tự tử tiềm ẩn. Bây giờ anh chỉ là Will – Will hay chọc tức, lanh lợi, thông minh và vui tính – người luôn luôn tỏ vẻ kẻ cả với tôi và thích làm giáo sư Higgins dạy cho tôi là Eliza Doolittle(1). Cơ thể của anh chỉ là một phần của toàn bộ con người anh, một thứ để lau chùi trong những lúc tạm ngừng nghỉ, trước khi chúng tôi quay lại tiếp tục tán gẫu. Tôi nghĩ, thân thể chính là phần ít hấp dẫn nhất của con người anh.
“Anh chỉ không thể tin nổi… sau tất cả những gì chúng ta đã trải qua… một thời gian dài biết bao nhiêu em đã để anh ở cạnh em bất cứ nơi nào… thế mà giờ có một người lạ khiến em rất thích thú được ở gần và thân mật…”
“Chúng ta có thể không nói về chuyện này đêm nay được không, Patrick? Hôm nay là sinh nhật em.”
“Anh đâu phải là người khơi mào, với mấy cái chuyện tắm rửa gì gì đó.” “Đó là bởi vì anh ấy trông bảnh trai phải không?” tôi hỏi. “Có phải vậy không? Chắc sẽ dễ hơn rất nhiều cho anh nếu anh ấy trông giống như – anh biết đấy – giống như một củ khoai?”
“Thế là em thực sự nghĩ anh ta bảnh trai đấy.”
Tôi kéo chiếc váy qua đầu, rồi bắt đầu cởi chiếc quần bó thật cẩn thận ra khỏi đôi chân, chút niềm vui còn sót lại trong tôi cuối cùng cũng bốc hơi bay đi mất. “Em không thể tin nổi anh lại như thế đấy. Em không tin anh lại ghen với anh ấy.”
“Anh không ghen với anh ta.” Giọng anh lãnh đạm. “Làm sao anh có thể ghen với một người tàn phế được cơ chứ?”
Đêm đó Patrick làm tình với tôi. Có thể “làm tình” là nói hơi quá lên một chút. Chúng tôi quan hệ với nhau, một cuộc giao hợp kiểu marathon, trong đó anh dường như quyết định phải phô trương hết năng lượng dồi dào, sức mạnh và sự cường tráng của bản thân. Nó kéo dài hàng giờ đồng hồ. Nếu có thể treo ngược tôi lên chiếc đèn chùm thì có lẽ anh cũng đã làm như vậy. Thật vui khi cảm nhận được niềm khao khát ấy, khi thấy mình trở thành trung tâm chú ý của Patrick sau nhiều tháng nửa như chia tay. Nhưng một phần nhỏ trong tôi vẫn ở đâu đó thật xa tất cả cuộc làm tình này. Tôi ngờ rằng rốt cuộc nó không phải là vì tôi. Tôi đã hiểu ra điều đó rất nhanh. Màn trình diễn nhỏ này là vì Will.
“Em thấy thế nào, hả?” Sau đó anh vòng người quanh người tôi, da thịt chúng tôi chạm nhẹ vào nhau nhớp nháp, rồi anh hôn lên trán tôi.
“Tuyệt,” tôi nói. “Anh yêu em, cưng.”
Thế rồi lòng đầy mãn nguyện, anh cuộn người lại, đặt một cánh tay lên đầu rồi ngủ say trong vòng ít phút.
Khi giấc ngủ mãi không tới, tôi bật dậy khỏi giường và đi xuống lầu lấy chiếc túi của tôi. Tôi thọc tay vào túi, tìm tập truyện ngắn của Flannery O’Connor. Đúng lúc tôi kéo nó ra khỏi túi, chiếc phong bì rớt theo.
Tôi nhìn nó chằm chằm. Tấm thiệp của Will. Tôi đã không mở lúc ở bàn ăn. Bây giờ tôi mới mở, cảm thấy một cái gì mềm xốp khó đoán ở bên trong… Tôi cẩn thận kéo tấm thiệp ra khỏi phong bì rồi mở ra. Bên trong là mười tờ 50 bảng mới cứng. Tôi đếm đi đếm lại hai lần, không thể nào tin vào những gì mình đang nhìn thấy. Trên tấm thiệp viết:
Thưởng cho ngày sinh nhật. Đừng nghĩ ngợi gì. Đây là mệnh lệnh. W
Chú thích:
(1) Hai nhân vật trong phim My Fair Lady (1964). http://credit-n.ru/zaymi-na-kartu-blog-single.html http://credit-n.ru/trips.html http://credit-n.ru/vklady.html