Mười lăm ngày sau, Thôi Diệu đã tới thủ phủ Hô La San là Mộc Lộc Thành, đây chính là nơi khởi đầu của vương triều A Bạt Tư, khoảng năm mươi năm trước. Người Hô La San là đội ngũ những người đã tham gia vào chiến tranh vương triều Ngũ Mạch Diệp, cuối cùng thành lập nên vương triều A Bạt Tư. Bởi vậy người Hô La San đang được hưởng địa vị rất cao trong cả nước. Bọn họ chỉ cần nộp thiên khóa, mà không phải chịu các gánh nặng về thuế má khác, Mộc Lộc thành là nơi tụ tập một số lượng lớn quý tộc Hô La San, bởi vậy lúc này kinh tế phồn vinh, cư dân thành thì đông đúc, là thành phố lớn thứ hai trong khu vực sông gần Tát Mã Nhĩ Hãn.
Thôi Diệu cũng không vào thành, tổng đốc Mộc Lộc là tâm phúc của Diệp Cáp Nhã, hắn không muốn có sự cố, chỉ đơn giản mua chút đồ tiếp tế ở ngoài thành, sau đó đi qua thành. Đi qua Mộc Lộc thành khoảng ba mươi dặm, bọn họ đi vào sa mạc mênh mông.
Tháng sáu đúng vào thời điểm nóng bức nhất, nắng nỏng như nung lửa, ánh mặt trời chiếu thẳng xuống, mặc dù không nắng đến nỗi không thở nổi, nhưng bọn họ mỗi người đều mặc quần áo màu đen, càng hấp thu nhiệt, ngay cả lạc đà là loại động vật có tính chịu đựng cao cũng phải từng bước từng bước đi trong cồn cát.
“ Mễ Lan Đức đại thúc, bao giờ mới đi tới đầu sa mạc?”
Trong bão cát Thôi Diệu lớn tiếng hỏi. Kỳ thật hắn đã đi qua con đường này lúc đến Ba Cách Đạt, chỉ có điều khi đó là mùa đông, hắn tràn ngập hiếu kỳ với nước ngoài, cho nên bất tri bất giác đã vượt qua sa mạc. Tuy nhiên bây giờ là mùa hè, mỗi một dặm đều cảm thấy vô cùng gian nan.
Trong đám tôi tớ, đầu lĩnh là một người tuổi khoảng năm mươi, tên là Mễ Đức Lan. Con đường này hắn thường đi nên hết sức quen thuộc. Hắn thấy Thôi Diệu đã có vẻ mất kiên nhẫn, liền cười nói:
“ Tiên sinh không cần bực bội, sa mạc này phải đi ước chừng ba trăm dặm nữa mới tới A Mỗ Hà, nói chung ban ngày nghỉ bên đêm đi, mấu chốt là phải tìm được ốc đảo, chúng ta sẽ có thể dừng lại nghỉ ngơi.”
Thôi Diệu nghe nói còn ba trăm dặm, hắn thoáng cái hết giận, lại nhịn không được hỏi:
“ Ốc đảo gần nhất cách chúng ta còn xa không?”
“ Nhìn kia! Ở phía kia”
Mễ Đức Lan tay chỉ về phía xa cười nói, Thôi Diệu nhìn theo hướng hắn chỉ, quả nhiên thấy phía trước có một bóng xanh, hắn hưng phấn kêu to một tiếng, thúc dục lạc đà, tinh thần phấn chấn gấp trăm lần đi nhanh về phía ốc đảo.
Ốc đảo không lớn cũng không nhỏ, diện tích khoảng hơn mười mẫu, nhưng bên trong có một dòng suối ồ ồ chảy ra, tạo thành một hồ nước nhỏ, nước hồ thanh tịnh ngọt, bốn phía trải dài rậm rạp khắp đồng cỏ và nguồn nước. Mọi người đều hoan hô, nhảy xuống lạc đà chạy tới hồ nước. Thôi Diệu cơ hồ đem cả đầu vùi vào trong nước, liều mạng uống nước ngọt trong suối. Chỉ có trải qua địa ngục sa mạc, mới có thể cảm nhận được nước quan trọng thế nào. Hắn uống no nước, chỉ tay lên trời nằm xuống, ánh mặt trời không còn gay gắt nữa. Bây giờ hắn mới phát hiện bầu trời thì ra tinh khiết như vậy.
Tất cả mọi người đều tranh thủ thời gian ở bên hồ để ngủ say, Thôi Diệu cũng dần dần đi vào giấc ngủ, đột nhiên hắn bị tiếng chấn động đánh thức, bây giờ là vào buổi tối, bầu trời đầy sao, phảng phất như chiếc áo trân châu bằng vải nhung. Thôi Diệu ngồi dậy, lắng tai yên lặng nghe, dường như là tiếng vó ngựa đang đi về phía ốc đảo này, số lượng cũng không nhiều, ước chừng khoảng hai ba mươi người. Thật kỳ quái, đi trên đường đều thấy thương nhân cưỡi lạc đà, không có kỵ mã, bọn họ làm sao có thể đi qua ba trăm dặm sa mạc lớn như vậy?
“ Mễ Lan Đức đại thúc! Mễ Lan Đức đại thúc!”
Thôi Diệu vội vàng hô vài tiếng, tùy tùng xung quanh đều ngồi dậy, Mễ Lan Đức lại không thấy bóng dáng đâu, đúng lúc này, từ phía xa truyền đến một tiếng kêu thảm thiết thê lương, tất cả mọi người đều sợ tới mức giật mình.
“ Không hay rồi, Mễ Lan Đức đại thúc!”
Thôi Diệu nhảy dựng lên, hai ba bước liền chạy tới lạc đà của mình, ngồi lên bướu lạc đà lớn tiếng thét to.
“ Giá! Giá!”
Các tùy tùng khác cũng lần lượt lên lạc đà, Thôi Diệu nhìn lại, dưới ánh sau cách khoảng hai trăm bước, có mười mấy tên kỵ quân Đại Thực mặc giáp mang nón đang hăng hái chạy tới bên này, hắn phản ứng cực nhanh, hét lên với mọi người:
“ Mọi người chia nhau ra trốn đi, nhanh!”
Không đợi mọi người đáp lời, hắn thúc giục lạc đà bỏ chạy về phía hướng chính Đông. Triết Nhĩ Pháp Nhĩ chết tiệt, đến bây giờ còn không chịu buông tha cho mình, hắn một bên thầm mắng, một bên hăng hái chạy trốn, sau lưng những tiếng kêu thảm thiết không ngừng truyền đến, đây đều là những tùy tùng của hắn. Lạc đà được nghì ngơi nửa ngày, thể lực hồi phục, chạy như điên dọc theo cồn cát
“ Cổ Đại”. Giọng nói của Thôi Diệu run rẩy, đầy sự kích động. Cái tên đó đã nhiều lần vang lên trong giấc mơ của hắn. Nhưng giờ đây: “ Thật là nàng sao. Không phải là ta đang nằm mơ đấy chứ”
Cổ Đại quá đỗi vui mừng khi Thôi Diệu tỉnh lại, những giọt nước mắt hạnh phúc cứ thế lăn dài trên má nàng. Nàng chậm rãi quỳ xuống bên cạnh tình lang. Nàng lau đi những giọt nước mắt hạnh phúc, đồng thời vuốt ve khuôn mặt gầy gầy xương xương, xạm nắng xạm gió của Thôi Diệu. Nàng nghẹn ngào nói: “ Cái người ác tâm này, thiếp cứ nghĩ chàng sẽ không sống nổi đâu, chàng có biết chàng đã hôn mê bao lâu rồi không hả”
Thôi Diệu chỉ cảm thấy thân thể cực kỳ suy nhược, bản thân hắn cũng không biết mình đã hôn mê bao lâu nữa, Mọi chuyện với hắn cứ như ngày hôm qua vậy. Hắn đưa tay phải nắm thật chặt lấy bàn tay mềm mại của Cổ Đại. Trong lòng trào dâng biết bao nhiêu ngàn vạn những tình cảm, những lời nói. Đôi môi hắn mấp máy, nhưng cuối cùng hắn chỉ nói một câu: “ Vì nàng, ta tuyệt đối sẽ không đi tìm cái chết đâu”
Nghe xong những lời ân tình ấy, Cổ Đại lại khóc như mưa, nước mắt cứ thế tuôn trên đôi má hồng. Suốt một tháng gian khổ bôn ba, suốt một tháng kiên trì không quản gió mưa để đi tìm tình lang. Nàng đã phải vượt qua bao hiểm nguy. Đã có lúc nàng mệt mỏi, mềm yếu muốn trở về nhà, sống yên ổn bên phụ thân. Nhưng nếu như thế thì những lời thệ hải minh sơn với ái lang đã tan thành mây khói rồi. Bỗng nhiên Cổ Đại ôm mặt khóc rưng rức. Tất cả hạnh phúc cùng với những vất vả, đắng cay đều được dòng nước mắt ấy cuốn trôi đi hết.
“ Chàng có biết không? Tới hôm nay là chàng đã hôn mê ba ngày bốn đêm rồi đấy. Mỗi ngày, thiếp chỉ còn biết cho chàng uống nước, cố gắng hết sức để duy trì tính mạng cho chàng. Chàng làm thiếp lo lắng muốn chết đi được” Cổ Đại vừa nói, vừa dùng cái muỗng nhỏ bón cho hắn một chút nước mát mà nàng vừa lấy từ con suối ở ngay trước mặt. Nàng hé miệng cười rồi nói tiếp: “ Thật ra thì ngay lúc ở Mộc Lộc thành thiếp đã nhìn thấy chàng rồi. Lúc đó thiếp cảm thấy người mặc bộ trang phục đen, che cả kín cả khuôn mặt đó trông rất giống chàng. Nhưng thiếp cũng không dám khẳng định chắc chắn, cho nên thiếp mới bám theo. Thật là quá nguy hiểm, nếu như thiếp không nhanh trí thì có lẽ giờ đây chúng ta đã âm dương cách biệt mất rồi. Chàng biết không, khi thiếp nghe nói chàng bị người Đại Thực bắt đi rồi, thiếp luôn nghĩ cách để cứu chàng ra, nhưng thật sự cho đến tận lúc này thiếp cũng chưa nghĩ ra cách nào để cứu chàng ra được”
Nói đến đây, dường như Cổ Đại lại muốn bật cười, bật cười vì tạo hóa đã thương xót bọn họ. Suốt một tháng lầm lũi hành trình tìm kiếm thì bỗng vô tình nàng lại gặp được tình lang của mình trong chốn sa mạc này. Cổ Đại tựa hồ còn rất nhiều lời muốn nói, nàng nói không chỉ bằng miệng mà ánh mắt của nàng cũng toát ta đầy sự hưng phấn, sung sướng. Nghĩ đến điều gì đó nàng bỗng nhiên nhướng mày hỏi Thôi Diệu: “ Nhưng đám binh lính Đại Thực kia tại sao lại muốn đuổi giết chàng chứ. Chẳng lẽ chàng đã chạy trốn hay sao”
Cánh tay trái của Thôi Diệu ngoài việc bị chém mấy nhát đao ra, còn bị gãy xương nữa. Cũng may là Cổ Đại sớm phát hiện nên đã tìm mấy thanh gỗ làm nẹp để cố định lại chỗ xương gẫy đó rồi. Hắn tuyết đối không thể cử động cánh tay trái đó. Lúc này, Thôi Diệu thoải mái nằm ngửa trên một tấm nệm êm ái mà Cổ Đại đã công phu dùng thứ cỏ mềm để sắp xếp. Sau mấy ngày hôn mê chỉ uống nước cầm hơi, cho nên bây giờ hắn cảm thấy đói bụng, hắn đang nhớ tới những cái bánh mỳ thơm ngon, cho nên khi đáp lời Cổ Đại hắn cũng có phần mơ hồ: “ Là bọn người ở Ba Cách Đạt muốn giết huynh, sở dĩ như vậy là vì huynh bị cuốn vào vòng xoáy đầu tranh quyền lực trong nội bộ Đại Thực. Tóm lại một lời thì không thể nào nói hết được chuyện này đâu. Chỉ lo không biết những người tùy tùng kia có thể giữ nổi tính mạng không nữa”
“ Vẫn còn có bảy người sống sót mà, buổi sáng hôm nay bọn họ có tụ tập lại. Và hiền tại đã quay trở lại địa điểm cũ để tìm kiếm cái gì đó”
Thôi Diệu nghe vậy, ngẩn người ra, hắn kinh ngạc hỏi: “ Là sao, nơi này chẳng lẽ là ốc đảo sao”
“ Đến bây giờ huynh mới nhận ra điều đó hay sao hả” Cổ Đại liếc nhìn Thôi Diệu rồi nũng nịu nói tiếp: “ Ốc đảo này, cách chỗ huynh vị tập kích chừng hơn năm mươi dặm. Chúng ta đã giết binh lính Đại Thực, nếu không trốn đi xa thì huynh nghĩ xem chúng ta liệu còn giữ nổi mạng sống hay không”
Thôi Diệu suy nghĩ một chút, xác nhận những lời của Cổ Đại quả thật rất đúng, binh lính Đại Thực vì cưỡi ngựa cho nên không thể nào tiến vào vùng sa mạc được, thế cho nên hắn mới có cơ hội chạy thoát được. Rồi đột nhiên Thôi Diệu như nghĩ ra chuyện gì đó, hắn cuống quyết sờ vào trong ngực áo. Sắc mặt đại biến. Phong thư mà Lạp Hy Đức đích thân viết đã không còn trong người hắn nữa rồi.
“ Huynh đang tìm cái này có phải không” Cổ Đại lấy từ trong cái túi da ở bên cạnh một cái hộp nhỏ bằng vàng. Khi mở hộp ra, Thôi Diệu thấy tín thư của Lạp Hy Đức vẫn còn nguyên vẹn, không có bất cứ hao tổn gì cả. Đến lúc này hắn mới thở phào nhẹ nhõm, rồi đưa tay nhận lấy chiếc hộp từ Cổ Đại và cẩn thận cất chiếc hộp đó vào trong ngực áo của mình. Hắn trầm tư một lát rồi nói với Cổ Đại: “ Hiện tại ta mang trên mình một sứ mệnh quan trọng không thể nào trễ nải trên hành trình được. Chờ sau khi những người kia quay trở về, chúng ta sẽ lập tức lên đường để sớm trở về Trường An
Cả một vùng bình nguyên Quan Trung lại đang bước vào vụ hè thu. Khắp nơi, đâu đâu cũng là những ruộng lúa vàng óng, trĩu bông. Cả một cánh đồng vàng ngút ngàn tầm mắt như không có giới hạn. Ở các thửa ruộng nông dân đang bận rộn thu hoạch lúa của nhà mình, những tiếng cười nói, hân hoan rộn rã. Năm ngoái Quan Trung xảy ra nạn hạn hán, cho nên sản lượng thu hoạch bị sụt giảm mất bốn phần. Rồi phải chi viện cho chiến tranh nữa, cho nên vô hình chung sau chiến dịch Toái Diệp, Đại Đường phần nào rơi vào tình trạng thiếu lương thực. Một đấu gạo tăng lên tới ba trăm năm mươi văn tiền. Lập tức triều đình phải tiến hành điều tiết ba trăm vạn thạch lương thực từ vùng Hoài Nam tới để giải quyết tạm thời tình trạng thiếu lương thực ở đây. Và hôm nay, cả Đại Đường lại bước vào một vụ thu hoạch mới, cũng rất may là cho tới tận đêm trước của ngày thu hoạch vẫn không hề xuất hiện thiên tai hay địch họa gì cả. Cho nên nhân dân cả một vùng bình nguyên Quan Trung ai nấy cũng đều vui mừng, phấn khởi. Bắt đầu từ trung tuần tháng sáu không chỉ Quan Trung mà thậm chí là cả Đại Đường cũng bước vào vụ gặt. Sau vụ thu hoạch hè thu, thì toàn bộ Hoài Bắc và một bộ phận các ruộng ở chân đất cao của Quan Trung, Hà Đông, Lũng Hữu lại bắt đầu bước vào cấy vụ lúa nước thứ hai trong năm. Còn các chân ruộng thấp hơn thì người dân cũng cho trồng các loại đậu đỗ. Còn ở khu vực phía nam của Hoài Thủy, khu vực này có đủ điều kiện để trồng cấy hai vụ lúa. Và lúc này, nơi đây cũng đang bước vào thu hoạch lúa sớm.
Mặc dù triều đình một mực khích lệ và thúc đẩy công thương nghiệp phát triển, nhưng vẫn luôn xác định nông nghiệp trước sau gì cũng là cơ sở để lập quốc. Dân lấy lương thực, ăn uống no đủ làm đầu. Điều này đã khắc sâu trong suy nghĩ và hành động của mỗi người dân thậm chí là mỗi viên quan của Đại Đường. Và cứ vào tháng sáu hàng năm chính là lúc mà cuộc sống ở Đại Đường trở nên bận rộn nhất trong năm. Từ hoàng đế tới từng cửu phẩm Chủ bạ, cho đến các quan viên đều phải xuống đến tận đồng ruộng. Tất cả bọn họ đều đội nón cỏ, tay cầm lưỡi hái, tay quệt mô hôi toát ra như tắm, hoàn toàn giống như một bách tính lao động bình thường. Đây là cảnh thường thấy của thời hoàng triều thịnh thế. Suốt một dải đất từ vùng ngoại ô phía đông của thành Trường An cho tới Tân Phong huyện, chính là khu vực gần với sông Vị Hà, cho nên ngay từ xưa nơi đây đã là một vùng đất giàu có của cả Quan Trung. Vốn dĩ chỗ này phân bố tổng cộng là hơn một ngàn nông trang lớn nhỏ. Phần lớn là tài sản riêng của các hoàng thân, quyền quý. Nhưng với việc thanh lọc và bãi bỏ nhưng đặc quyền của người trong hoàng thất ở năm Đại Trị thứ nhất và việc bãi bỏ chế độ nô lệ từ năm Đại Trị thứ tư, Trương Hoán thật sự đã thực hiện một cuộc cải cách lớn, mang tầm chiến lược: một số lượng lớn nông trang biến mất, hiện tại còn sót lại chưa đến một trăm nông trang. Số này phần lớn là đất đai thế tập vĩnh nghiệp của các đại gia tộc. Còn lại rất nhiều ruộng đất đã được chia cho nông dân, và dĩ nhiên là bọn họ trở thành những người có tài sản. Mỗi hộ tùy theo có thể nhận từ mười lăm đến hai mươi mẫu ruộng. Ngoại trừ binh lính có công và quan lại ra, còn tất cả đều nộp thuế lên triều đình với mức hai mươi phần trăm. Các loại thu nhập khác triều đình không đánh thuế người dân được hưởng hoàn toàn. Đồng thời triều đình còn ban ra thánh chỉ, nói rõ rằng, mức thuế ấy sẽ được thực hiện trong vòng năm mươi năm, cho dù gặp hoàn cảnh nào cũng không thay đổi. Điều này đã giúp cho dân chúng không còn băn khoăn lo ngại gì cả, tất cả đều yên tâm làm ăn, tăng gia sản xuất., một hơi liền đi được bốn năm dặm đường. Thôi Diệu vụng trộm nhìn về phía sau, không khỏi âm thầm kêu khổ. Phía sau cồn cát đang có ba chấm đen nhỏ chạy theo hướng hắn, dưới ánh sao nhìn đặc biệt rõ ràng, những kỵ binh này nhất định không bỏ qua mục tiêu. Hắn liều mạng thúc giục lạc đà nhanh hơn, hận không thể tự mình khiêng lạc đà mà chạy.
Tuy sức chịu đựng của ngựa so với lạc đà không bằng, nhưng nếu chạy nước rút thì lại nhanh hơn, lạc đà không phải đối thủ của chiến mã, mắt thấy truy binh ngày càng tới gần, còn không đến hai dặm, liền lao xuống một cồn cát. Thôi Diệu tâm bỗng nhảy lên, rút ra một thanh đao sắc bén, thả người nhảy xuống lạc đà, trên cồn cát hắn liên tiếp đâm xuống mấy nhát mới chậm rãi dừng lại. Hắn bị ngã khiến đầu óc mê muội, miễn cưỡng bò tới phía bên phải mũi nhọn của cồn cát. Lúc này trên cồn cát cao hơn con đường truy binh phải vượt qua.
Sau một lát, tiếng thở dốc từ cồn cát truyền đến, ba gã kỵ binh đã xông lên cồn cát, bọn họ ngừng lại một chút, sau đó lại tăng tốc đuổi theo lạc đà phía trước. Khi bọn họ đi qua người Thôi Diệu, Thôi Diệu đột nhiên thả người rơi xuống, một đao chém đứt cổ tên kỵ binh đi cuối, hắn bị một cước đạp thẳng khỏi ngựa, không ngờ chiến mã liền bị sợ hãi, hí một tiếng dài, Thôi Diệu bắt được dây cương, cưỡi lên lưng ngựa, nhanh như chớp lao xuống cồn cát.
Hai gã kỵ binh còn lại thấy đồng bọn bị giết, không khỏi giận tím mặt, nhảy xuống ngựa xách đao đuổi theo hướng Thôi Diệu vừa đi. Cánh tay Thôi Diệu cũng bị đao quệt làm bị thương, máu chảy đầm đìa, đao cũng không biết đã ném đi đâu. Giờ phút này, hắn bất chấp xem xét miệng vết thương, lảo đảo liền đi về phía trước chạy trốn. Hắn mất quá nhiều máu, đầu đã dần choáng váng, thúc ngựa chạy về phía trước. Tuy nhiên trong lòng lại tự hiểu được, bản thân mình hôm nay có lẽ sẽ chết ở đây. Lúc này hắn thấy phía trước dường như có hai đội lạc đà, chẳng lẽ mình hoa mắt sao?
Nhưng đã không còn kịp rồi, truy binh từ phía sau chạy tới ngày càng gần, cách xa nhau không đến hai trượng, bọn họ giơ lên thanh đao sáng loáng thét lớn chạy về hướng Thôi Diệu.
Trong một thoáng sống còn này, một mũi tên bay tới, trúng ngay giữa khuôn mặt tên lính, Thôi Diệu chỉ nghe thấy một tiếng kêu khẽ bên tai:
“ Để mạng lại!”
Tiếp theo là một tiếng thét dài thảm thiết, trong lòng hắn bỗng dưng buông lỏng, ngã ra trên mặt đất, trước mắt tối sầm, bất tỉnh nhân sự.
Thôi Diệu từ từ mở mắt ra. Lúc này không gian xung quanh đối với hắn thật mơ hồ. Và rồi phải đến một lát sau, khi mà mắt hắn đã quen dần với ánh sáng thì cảnh vật trước mặt mới được hiện lên một cách rõ ràng hơn. Hắn nhìn thấy trên nền trời xanh thẳm kia, có một đàn chim đang bay qua. Hắn cũng cảm nhận được sự mát mẻ của những cơn gió, nghe thấy những tiếng xào xạc của đám lau lách khi có gió thổi qua.
“ Ta đang ở đâu đây”
Thôi Diệu từ từ quay đầu ngó nghiêng xung quanh, một hồ nước nước lăn tăn gợn sóng, phản chiếu ánh nắng mặt trời. Hắn cảm thấy nơi này dường như hắn có quen thuộc thì phải. Đúng rồi! Đây chính là cái ốc đảo mà xế chiều hôm qua hắn dừng lại để nghỉ ngơi mà. Nhưng vào tối hôm qua, hắn lại bị truy binh của Đại Thực truy sát. Trong lúc tối hậu chỉ còn lại hai gã hộ vệ liều chết bảo vệ hắn, không biết bây giờ bọn họ chạy đến chỗ nào rồi không biết. Thôi Diệu nhấc mình muốn ngồi dậy, nhưng bỗng nhiên hắn cảm thấy cánh tay trái đau nhức vô cùng. Cái cảm giác đau đớn khiên cho mồ hôi trên người hắn vã ra đầm đìa, cơ hồ như muốn ngất đi lần nữa vậy.
“ A, huynh tuyệt đối không được cử động gì cả” Bên tai Thôi Diệu bỗng nhiên vang lên một âm thanh trong trẻo, dịu dàng. Trong lời nói đó toát ra một sự quan tâm, lo lắng cho hắn vô cùng. Giọng nói đó khiến cho Thôi Diệu cảm thấy chấn động như sét đánh bên tai vậy. Hắn quả thật là không thể nào tin vào tai của mình nữa. Là nàng sao? Rồi hắn lại tự phủ nhận: “ Không nàng không thể xuất hiện ở nơi này được”. Nhưng giọng nói đó rõ ràng là thanh âm của nàng, làm sao Thôi Diệu có thể nhầm lẫn được chứ. Hắn như quên mất cánh tay đang đau đớn kia, từ từ quay đầu nhìn về phía phát ra giọng nói, và một khuôn mặt tiều tụy nhưng không mất đi vẻ xinh đẹp thanh tú hiện ra trước mắt hắn. Cái mũi thẳng dọc dừa, ánh mắt lấp lánh như bảo thạch, làn da mịn màng như được thoa một lớp phấn trang điểm. Đôi môi hồng tươi kia đã ám ảnh những giấc mơ của hắn. Những hình ảnh ấy đã lẻn vào trong giấc mơ của Thôi Diệu hàng đêm, để cho hắn luôn khắc cốt ghi tâm về một bóng hình. Và giờ đây, nụ cười của nàng đang hiện ra trước mắt hắn, tươi tắn như một bông hoa súng giữa sa mạc. Bông hoa ấy đang tươi cười khoe sắc.