“Nhưng sư phụ của ta thực sự bị bệnh mà, đã ba ngày rồi người vẫn chưa thể xuống giường.” Đồng tử nói bằng giọng yếu ớt. Bấy giờ nó đang mặc trên người một thân đạo bào màu xanh rất rộng, tóc búi lên theo kiểu của đạo sĩ, lông mày của thằng bé rất nhạt.
Thanh niên kia tiếp tục nói: “Ở đây nhiều phòng như thế, lại không có nổi một gian tịnh thất hay sao?”
“Đã có người trú cả rồi. Sư phụ trước giờ chưa từng để ý chuyện ai vào ở, cũng chưa đuổi ai đi bao giờ.” Đồng tử nói tiếp.
“Hừ, Hồ Bất Chấp cho kẻ khác trú, lại không để sư phụ ta trú, lẽ nào không coi sư phụ ta ra gì?” Nói đến đây, đôi mắt gã híp lại. Gã nói tiếp, trong giọng nói đanh thép của gã chứa đựng sát ý: “Nghe đâu, Thông Thiên Quán này đã từng có người gia nhập Thiên Diễn Đạo Phái. Nhưng ngươi hẳn không biết, Thiên Diễn Đạo Phái cũng sắp diệt vong rồi.”
Nói rồi, một tay gã nắm đồng tử trước mặt quăng đi, gã bước vọt lên, xông thẳng về phía phòng của lão đạo sĩ.
Lại nói, Bất Chấp Đạo Nhân tuy sống nơi trần thế, song lão cũng có pháp thuật. Ở Bạch Nguyên Châu này, lão đại khái cũng có được địa vị hơn người, ấy là bởi Thông Thiên Quán đã từng có một đồng tử vào được Thiên Diễn Đạo Phái. Mặc dù bọn họ không biết Thanh Dương Tử hai mươi năm về trước đã bị trục xuất khỏi sư môn, song lại biết đến tình cảnh bất ổn hiện thời của Thiên Diễn Đạo Phái. Đây là chuyện lớn, dù là người trong chốn phàm trần cũng có nghe nói đến.
Đồng tử nóng lòng, liền nhào ra cản đường thanh niên hông giắt kiếm, nhưng nào có thể cản nổi. Nó duỗi tay kéo thì bị thanh niên đó nắm quăng một cái, ngã nhào xuống đất.
“Đừng có vào mà, đừng, xin huynh đó, sư phụ ta bệnh nặng lắm, không thể ra gió được.”
Đạo đồng đó tên gọi Hoàng Linh, được Bất Chấp Đạo Nhân nuôi nấng từ thuở nhỏ, rất ít khi xuống núi. Tuy trong lòng sợ hãi, nó vẫn gắng sức ngăn chặn thanh niên đeo kiếm ấy.
Nó bò dậy từ trên mặt đất, vừa đuổi theo vừa kêu gào.
Đến lúc này, từ trong các gian phòng còn lại của đạo quán cũng không ngớt có người đi ra. Bọn họ thảy đều biết, quán chủ của Thông Thiên Quán – Bất Chấp Đạo Nhân – quả thực không hề đổ bệnh. Tuy nói, tu sỹ nhân gian so với Thanh Dương Tử chẳng qua đều chỉ như người leo cây bắt cá(*), song họ sống đến một, hai trăm năm là chuyện rất bình thường, càng không thể đổ bệnh tật gì.
Kỳ thực, Bất Chấp Đạo Nhân đã bị kẻ khác đả thương, sự việc xảy ra khoảng một tháng trước. Người đánh Bất Chấp Chân Nhân trọng thương gọi là Liệt Viêm Lão Tổ. Người trung niên khoác áo cẩm bào bấy giờ đang đứng bên ngoài chắp tay nhìn trời chính là huynh đệ của Liệt Viêm lão tổ, tên gọi Nguyên Trì, không chỉ tu vi cao, mà còn là một vị vương gia tiêu dao của Nguyên Quốc.
Còn Liệt Viêm Lão Tổ kia vốn tên là Nguyên Thận, từ nhỏ đã bái Liệt Viêm Lão Tổ đời trước làm thầy. Hai mươi năm trước, lão trở thành Liệt Viêm Lão Tổ đời thứ tư, uy chấn thiên hạ. Bất Chấp Chân Nhân tìm đến chỗ Liệt Viêm Lão Tổ mà chỉ bị thương chứ chưa chết, ấy đã là chuyện nhiều mà người không thể ngờ đến.
Những người vừa bước ra khỏi các gian phòng kia đều là kẻ tu hành. Bọn họ chiếm cứ các gian phòng trong đạo quán mà chưa hề có sự đồng ý của Bất Chấp Chân Nhân. Mà họ cho rằng chuyện đó cũng chẳng cần thiết, bởi lẽ chỗ dựa lớn nhất của Bất Chấp Đạo Nhân là Thiên Diễn Đạo Phái nay đã như ngọn đèn treo trước gió: sự việc này đã không còn là bí mật chi đối với những người tu hành.
Trong số đó, thậm chí còn có kẻ cho rằng, một khi Bất Chấp Đạo Nhân nhắm mắt xuôi tay rồi, Thông Thiên Quán này ắt phải thay người chấp chưởng. Mà dù lão chẳng chết, thì cũng nên thay người thôi.
Những người trú trong các gian phòng bên cạnh cũng bước ra xem gã thanh niên kia vọt về phía tịnh thất của Bất Chấp Chân Nhân. Bọn họ đương nhiên đều biết gã thanh niên này. Gã ta tên gọi Kiềm Thất, là đệ tử đắc ý nhất, luôn theo bên mình Nguyên Trì.
Kiềm Thất đang cảm thấy hết sức khoái chí.
Đến nay gã vẫn còn nhớ rõ, vài năm về trước, khi sư phụ đưa gã đến Thông Thiên Quán này, người đã từng hỏi Bất Chấp, rằng: “Chân nhân xem đệ tử này của ta thế nào?”
Bấy giờ, Bất Chấp Chân Nhân chỉ lạnh lùng nhìn Kiềm Thất mà chẳng nói một lời. Với một đứa trẻ lớn lên trong sự tán thưởng, xưng tụng của người khác như Kiềm Thất, ánh mắt lạnh lùng ấy của Bất Chấp Chân Nhân cũng đồng nghĩa với sự miệt thị, không coi gã vào đâu.
Về sau, trong một pháp hội, Kiềm Thất được nghe ai đó nói rằng Bất Chấp Chân Nhân kỳ thực có bình phẩm riêng về gã. Lão nói gã tâm địa hẹp hòi, không đủ để kế thừa “đại thống”. “Đại thống” mà lão nhắc đến ở đây không chỉ những ngai vị đế vương của nhân gian, mà có ý nói Kiềm Thất không đủ khả năng để kế tục vị trí thủ tọa đệ tử của Tiêu Dao Vương Nguyên Trì. Khoảng thời gian đó cũng chính là lúc Tiêu Dao Vương Nguyên Trì đang quyết định người sẽ trở thành đệ tử thủ tọa chân truyền của mình.
Bất Chấp Chân Nhân rốt cuộc có nói lời đó thực hay không, Kiềm Thất hoàn toàn không cân nhắc đến. Cảm giác khoái chí dấy lên trong lòng lúc này đã gần như nuốt trọn lấy gã. Phía trước kia chính là cửa gian tịnh thất, gã đương nghĩ nên xô cánh cửa đó như thế nào. Một lão già đã từng cao cao tại thượng, từng dùng ánh mắt khinh miệt nhìn gã, nay lại sắp xuất hiện trước mặt gã, sắp sửa phô ra dáng vẻ kinh hãi.
Hoàng Linh bò dậy từ trên nền đất, cấp tốc đuổi theo. Nó nhào đến ôm lấy chân Kiềm Thất, lớn tiếng kêu gào, van nài: “Ta cầu xin huynh, đừng có vào mà, sư phụ ta đang lập bắc tinh thất đẩu trận pháp để hộ mệnh. Huynh mà bước vào, sư phụ bị quấy nhiễu sẽ lập tức hồn bay phách tán. Cầu xin huynh…”
Thanh niên tên gọi Kiềm Thất kia hoàn toàn không để tâm đến Hoàng Linh. Gã chỉ vung chân đá về phía sau một cái, đồng tử bị đá trúng lồng ngực, văng ra, lăn mấy vòng trên mặt đất.
Kiềm Thất đã đến trước cửa. Ý niệm vừa lóe lên, gã liền cất chân đá ngay vào cánh cửa. Phải lôi thôi với Hoàng Linh đã khiến gã bừng bừng lửa giận, lại thêm nhiều người chứng kiến đến thế, cũng khiến gã ít nhiều cảm thấy mất mặt.
Kiềm Thất vung một chân đạp thẳng vào cánh cửa.
“Đừng mà…”
Cùng với tiếng kêu tuyệt vọng của Hoàng Linh, một cái chân khác đột nhiên xuất hiện từ trên cánh cửa, ấn thẳng vào giữa ngực của Kiềm Thất.
Mà cái chân đó, lại chỉ là một khối cầu màu vàng do ánh sáng ngưng kết lại mà thành, xuất hiện thình lình, không hề có dấu hiệu báo trước.
Cùng lúc đó, từ bên trong gian phòng vang lên một giọng nói cứng rắn:
“Cút!”
Kiềm Thất kinh hãi đến thất sắc, gã hoàn toàn không có cách gì chống cự. Vừa nghe giọng nói ấy cất lên, thân thể của Kiềm Thất đã vuột khỏi sự khống chế của gã, văng lên, bay vọt ra ngoài. Cả người gã đập lên một cái đỉnh lớn ở trong hậu điện, linh quang tứ tán.
“Ầm” một tiếng, Kiềm Thất té ập xuống đất. Gã vật vã bò dậy, hết nhìn trên lại nhìn dưới, thấy thân thể mình không bị tổn thương gì, nhưng linh lực trong thể nội đã bị một cước ấy đá cho văng tứ tán cả. Những kẻ khác cũng trông thấy, từng người, từng người một đều kinh ngạc nhìn về phía cánh cửa gian tịnh thất.
Chính vào lúc đó, lại có một giọng nói cất lên từ bên trong gian thất: “Quỳ xuống.”
Chỉ nghe “phịch” một tiếng, Kiềm Thất đã quỳ ngay xuống đất. Gương mặt gã lộ rõ vẻ xấu hổ, dường như gã đang dốc sức đấu tranh, nhưng thân thể vẫn tuyệt nhiên không thể động đậy được.
Đến lúc này, tất cả những kẻ tu hành, bao gồm cả Tiêu Dao Vương Nguyên Trì, đều như đóng băng tại chỗ, bởi chẳng ai trong số họ nhìn ra được đấy là công phu gì.
“Thông Thiên Quán này từ lúc nào có được một vị cao nhân như thế? Lại còn đang ở trong phòng của Bất Chấp nữa…”
Chuyện này đã khiến những kẻ vừa đến Thông Thiên Quán đã tự mình đi tìm phòng trú bất giác phải chột dạ.
Duy chỉ có Hoàng Linh gào to một tiếng rồi nhanh chóng lao đến chỗ gian thất. Nhưng khi đến trước cửa, nó lại chẳng dám đẩy cửa tiến vào, bởi nó biết bên trong gian thất ấy, sư phụ đã bày trận pháp hộ mệnh. Nó sợ sẽ làm đứt sinh mạch của sư phụ.
“Sư phụ, có phải là người đấy không?”
Giọng nói yếu ớt của nó vừa dứt, cánh cửa đó đột nhiên lại bốc ra một khối cầu ánh sáng màu vàng.
Trong chớp mắt, khối quang cầu đã nuốt chửng lấy nó.
oooOoOoOooo
Ánh lửa lập lòe hiện lên trước mắt đạo đồng.
Ánh lửa phát ra từ những ngọn đèn dầu nhựa thông trên nền đất và trên tường trong gian tịnh thất.
Lửa đèn tí tách cháy, chưa có ngọn đèn nào bị dập tắt.
Những ngọn đèn này được bày thành hình thất tinh bắc đẩu lập thể, nhằm hút lấy hỏa độc trong người Bất Chấp Chân Nhân.
Liền đó, đồng tử trông thấy sư phụ mình bấy giờ vẫn đương nằm trên giường chưa hồi tỉnh. Trước đấy, khi ở bên ngoài cửa, đạo đồng đã ấp ủ hy vọng rằng sư phụ của nó đã tỉnh lại rồi.
Sau đó, nó mới phát giác, thì ra bản thân nó không phải đang đứng trong phòng, mà thực ra lại đang ở bên trong cánh cửa. Rất nhanh, nó lại phát hiện ra còn có một người nữa đang đứng bên cạnh mình. Người này dáng dấp thon gọn, cao ráo, trông còn rất trẻ. Y vận đạo bào màu tía, vẻ mặt lạnh lùng, nghiêm nghị.
Tuy cảm thấy hơi sợ hãi, Hoàng Linh vẫn gắng gượng áp chế nỗi sợ trong lòng, nói: “Đa tạ chân nhân đã ra tay ngăn cản gã Kiềm Thất đó xông vào. Xin chân nhân cho tiểu đạo biết đạo danh của ngài, để ngày sau khi sư phụ của tiểu đạo tỉnh lại, cũng tiện nói với người là ai đã ra tay trượng nghĩa.”
Nói xong lời đó mà lòng nó thấp thỏm. Thằng bé chỉ mong sao người này là bằng hữu của sư phụ chứ không phải địch nhân gì. Tuy trước mắt, người này đã ngăn cản Kiềm Thất bước vào, song y vị tất đã là bằng hữu của sư phụ.
Hoàng Linh ngẩng đầu nhìn, vị chân nhân bên cạnh ấy cũng cúi đầu nhìn nó.
Trong sát na ánh mắt thằng bé và tử bào chân nhân chạm nhau, nó cảm thấy nhãn thần của người này tựa như đao quang xẹt qua, vạch thấu tâm địa nó, lại hóa ra một dòng sông băng bao bọc lấy, khiến đạo đồng như bị phong bế trong một lớp băng lạnh giá.
Tiểu đạo sĩ run lẩy bẩy. Cảm xúc của nó bấy giờ tựa như đã đông cứng. Nhưng khi có một bàn tay vỗ về trên đầu nó, nỗi kinh sợ đã nhanh chóng tan chảy cùng với lớp băng giá, cùng với đó là cảm giác ấm áp, dễ chịu, như thể có một dòng suối ấm đang chảy trôi trong lòng nó.
Sau đó, đạo đồng lại trông thấy vị chân nhân kia mỉm cười với nó, mới vừa nãy y còn khiến nó chỉ trong sát na đã cảm thấy khủng hoảng đến tột độ. Tiếng người đó cất lên bên tai đạo đồng: “Ta tên Thanh Dương Tử. Ngươi yên tâm, không ai có thể làm hại sư phụ của ngươi được nữa.”
Hoàng Linh định thần lại, sau đó nói: “Thì ra là Thanh Dương Tử Chân nhân, cái ân hôm nay, tiểu đạo nhất định sẽ ghi khắc trong lòng. Pháp lực của tiểu đạo thấp kém, không thể báo đền, chỉ có thể vì chân nhân khắc một tấm bia trường sinh…”
Thằng bé nói đến đây, đột nhiên lại như nhớ ra chuyện gì, nó hỏi tiếp bằng giọng run run: “Chân nhân… đến từ thượng giới ư?”
Thanh Dương Tử thấy sự kỳ vọng lấp lánh trong ánh mắt nó, y gật đầu. Sau đó, y lại nghe thấy giọng nói run rẩy của Hoàng Linh cất lên, thằng bé cấp tốc hỏi: “Phải chăng chân nhân đến từ Thiên Diễn Đạo Phái?”
“Ừm.”
Lời đáp nhẹ nhàng này của Thanh Dương Tử, khi lọt vào tai của Hoàng Linh lại như thanh âm giáng xuống từ nơi thượng giới. Bóng đen u ám, lạnh lẽo vốn vây phủ trong lòng nó, nay như bị ánh dương xua tan, hồng hoa khai nở rợp tâm địa. Cùng lúc đó, lại chợt có nước mắt óng ánh ứa ra từ đôi mắt đạo đồng. Ban nãy, khi ở bên ngoài, dù bị Kiềm Thất bắt nạt đến thế thằng bé vẫn không hề khóc lóc, vậy mà lúc này nước mắt nó lại tuôn thành dòng, không sao kiềm được. Thằng bé nói bằng giọng rưng rức: “Sư huynh, huynh đến rồi. Huynh phải báo thù cho sư phụ, sư tỷ nha!”
“Đệ yên tâm, bất luận là kẻ nào, thù này nhất định phải báo.” Thanh Dương Tử trầm giọng nói, tiếp đó lại hỏi vị sư tỷ mà Hoàng Linh vừa nhắc đến là vị sư tỷ nào.
“Là Cốc Nhi sư tỷ, tỷ ấy bị đệ tử của Liệt Viêm Lão Tổ bắt đi, không cam lòng chịu nhục nên tự vẫn mất rồi. Sau đó, sư phụ tìm đến Liệt Viêm Cung báo thù cho sư tỷ thì lại bị Liệt Viêm Lão Tổ đánh trọng thương.”
Nghe thấy lời này của Hoàng Linh, Thanh Dương Tử đã hiểu ra thân phận của vị Cốc Nhi sư tỷ này.
Đệ tử bị kẻ khác bắt đi rồi tự vẫn, bản thân mình đi báo thù cho đệ tử lại bị đánh trọng thương, sống chết không rõ… Thanh Dương Tử có thể hình dung được trong lòng Bất Chấp Chân Nhân phải đau đớn đến mức nào.
Lửa giận cùng sát ý bốc lên, mỗi lúc một thịnh trong lòng y, oán ma lại như muốn hiển hóa thành hình. Đồng thời, ác ma giết chóc cũng đang trỗi dậy…
———————————-
Chú thích của người dịch:
(*) “Leo cây bắt cá”: thành ngữ, leo lên cây để tìm bắt cá, ý nói làm việc sai phương hướng ngay từ đầu, có cố gắng đến mấy cũng chẳng thu được kết quả gì. Như hạng tu sĩ nhân gian được Thân Vẫn Chỉ Tiêm đề cập đến ở đây, phương pháp tu hành của họ đã lầm lạc ngay từ đầu thì có nỗ lực tu thêm cũng chẳng lợi ích gì. huynh, Liệt Viêm Lão Tổ kia sắp hạ xuống rồi, chúng ta làm sao chống đỡ?”
“Lão không hạ xuống được đâu.”
Lời vừa dứt, y liền ném thanh lệnh kiếm trong tay vào hư không. Chỉ thấy một quầng sáng trong trẻo lóe lên rồi vụt tắt, liền sau đó là một thanh lệnh kiếm được ném ra, rồi liên tiếp tám đường kiếm nữa lao vút đi theo tám phương hướng khác nhau. Chỉ trong một sát na, cả Thông Thiên Quán đã bừng sáng một tầng ánh sáng thanh khiết.
Ánh sáng xoay vần tựa cuồng phong, mỗi một vệt sáng tựa như một đường kiếm. Thế nhưng, khi Liệt Viêm Lão Tổ từ trên không trung nhìn xuống, Thông Thiên Quán của Lạc Hà Sơn lại không giống như hình ảnh mà những người ở phía dưới trông thấy: lão ta thấy một đóa liên hoa bừng nở. Song, đóa liên hoa này lại là hư huyễn.
Cái đầu không lao xuống, mà chỉ xê dịch theo mặt trời. Thời gian từng khắc một trôi đi.
Bên trong đạo quán, Thanh Dương Tử đi đi lại lại. Mặt đất nơi y giẫm qua hiện lên từng lá phù văn màu vàng kim. Y vừa đi lại vừa nói chuyện, chỉ nói những chuyện giữa Hoàng Linh với Bất Chấp Đạo Nhận trong mấy năm qua. Những chuyện đó với Hoàng Linh tẻ nhạt lắm, chẳng có chi đáng để chuyện trò; nhưng Thanh Dương Tử lại có vẻ như rất hứng thú.
“Sư huynh, cái đầu đó của Liệt Viêm Lão Tổ sắp hạ đến đỉnh đầu chúng ta rồi.”
“Ừm, bình nhật đệ và sư phụ hay ăn gì nhỉ?” Thanh Dương Tử hờ hững đáp.
“Sư phụ chỉ uống nước sơn khê, đệ muốn ăn thịt, nhưng sư phụ không cho.” Hoàng Linh mau miệng đáp. Nói đến đấy, nó chạy ngay đến chỗ có thể nhìn thấy được bầu trời để ngó một cái, rồi lại nhanh chân chạy trở lại, nói: “Sư huynh, cái đầu của Liệt Viêm Lão Tổ sắp đến đỉnh đầu của chúng ta thiệt rồi.”
“Ừa, thế ngày thường đệ có học thuộc đạo thi không?” Thanh Dương Tử vẫn hờ hững nói.
ooOoOoOoo
Bên trong Thông Thiên Quán, Thanh Dương Tử vẫn điềm nhiên đi đi lại lại. Còn tại Liệt Viêm Cung ở nơi xa xôi, toàn thân Liệt Viêm Lão Tổ đã bùng bùng một ngọn lửa vàng kim. Sau đó, cả người lão tan chảy dưới ánh lửa kim sắc ấy. Cuối cùng, chỉ còn sót lại ánh lửa.
Ngọn lửa vàng kim lủi xuống lòng đất mà đi.
Liệt Viêm Lão Tổ muốn dẫn Địa Sát Ma Hỏa từ trong lòng đất đến Lạc Hà Sơn.ên hỏa, song vẫn chưa thoát ly được cảnh giới của “pháp”, chưa thể chạm đến phạm trù “Đạo”; thế nên lão vẫn bị Thiên Diễn Đại Trận vây lấy, vô phương trốn thoát.
Một cảnh giới khác lại được tôn xưng là “nhất niệm hóa thiên địa” (một niệm hóa trời đất). Đạt đến tầng này, thế giới trong tâm hiển hóa ra nơi thế gian, muôn vạn pháp thuật đều chỉ trong một niệm mà thành.
Đó là “Thiên nhân đạo”.
Có người từng nói, chỉ những ai đã cất chân qua ngưỡng cửa Thiên nhân đạo mới được coi là thực sự bước trên nẻo thăng thiên.
Cảm giác dung hòa cùng thiên địa trong lòng Thanh Dương Tử tan biến dần, oán ma pháp châu trong tâm y cũng trở lại vị trí trung tâm. Bất kể y cố gắng cảm nhận thế nào, cũng không thể có lại cảm giác tương thông cùng vầng thái dương đằng chân trời kia.
Y biết, cảm giác này chỉ có thể gặp chứ không thể cầu. Tuy vậy, chỉ một khoảnh khắc tương thông ấy thôi, chỉ một khoảnh khắc “tâm ta phản chiếu thiên địa” ấy, cũng đủ lưu lại dư âm miên man bất tuyệt trong lòng y.
ooOoOoOoo
Những tu sĩ bên dưới Lạc Hà Sơn nhất thời vẫn không dám lên núi. Họ tập trung dưới chân núi, cùng nhau luận bàn; thảy đều nói về chuyện Liệt Viêm Lão Tổ thần thông đến vậy mà cũng đại bại, đến giờ vẫn bặt tăm, không rõ tung tích thế nào, cũng có lẽ chăng lão không thoát được, cả mạng cũng không còn.
Họ cũng bàn luận về một chuyện nữa: Đệ tử chân truyền của Liệt Viêm Lão Tổ là Bàng Việt đã chết về tay một nữ tử không thông pháp thuật. Lúc nhắc đến nữ tử này, đa số đều đặt nghi vấn – lợi kiếm trong tay nàng ta rốt cuộc là kiếm gì, mà lại có thể chém vỡ cả pháp bảo lẫn pháp thuật?!
Thời gian như gió cát, có thể chôn vùi hết thảy vết tích. Chuyện kinh thiên động địa của hôm nay, nhân vật hô phong hoán vũ của hôm nay, qua mấy mươi năm sau có thể vẫn được tán dương một câu “quả là kỳ tích”; song rốt lại rồi cũng chỉ là anh hùng nhất khoảnh mà thôi.
Tuy bọn họ đoán được thân phận của Thanh Dương Tử, nhưng lại chẳng ai có thể thực sự chắc chắn về suy đoán của mình; mà dù có thể chắc chắn người trong Thông Thiên Quán là Thanh Dương Tử đi chăng nữa, chẳng qua cũng chỉ giúp biểu dương danh tiếng của y ở thời điểm hiện tại mà thôi.
Họ đâu biết, hai mươi năm trước, Thanh Dương Tử từng là đệ tử đứng đầu Thiên Diễn Đạo Phái, được chân truyền của chưởng môn nhân. Tại Vạn Tượng Pháp Hội, cuộc luận bàn Đạo, pháp xuất chúng của y, phong thái cùng tài năng tột bực của y, thảy đều khiến mọi người nghĩ y sẽ trở thành một vì tinh tú rực rỡ giữa trời đất. Họ đã chẳng ngờ, rằng đó chỉ là đốm sao băng vụt thoáng qua rồi mất hút, không để lại chút vết tích. Hai mươi năm trôi qua, chỉ e nơi thượng giới đã chẳng còn ai nhớ đến sự tồn tại của y, huống hồ tên tuổi của y vốn dĩ không hề được truyền đến nhân gian này.
Thanh Dương Tử của hai mươi năm trước bị tước đoạt pháp ý, linh lực thất tán. Trầm luân giữa vạn trượng hồng trần, chìm nổi hai mươi năm; nay sóng trần đưa y tái xuất, cất tay hạ sát một Liệt Viêm Lão Tổ đã tung hoành mấy mươi năm ở cõi nhân gian. Một chuyện kinh thiên động địa nhường ấy đương nhiên khiến người đời không khỏi sửng sốt.
Trong chớp mắt, trời đã hửng sáng. Những người dưới chân Lạc Hà Sơn bấy giờ mới vội vã lên núi, nhưng khi đến trước Thông Thiên Quán, lại chẳng ai dám ba hoa lời nào nữa. Ai nấy đều cẩn trọng, ngay cả nhìn Thông Thiên Quán cũng không dám nhìn lâu.
Chính vào lúc mặt trời hoàn toàn ló dạng, đằng chân trời có một luồng ánh sáng vàng rực xuất hiện. Ánh kim quang vạch qua chân trời, soi chiếu đến đâu, nơi ấy lưu lại một đoạn Kim Kiều giữa hư vô. Khi Kim Kiều hạ xuống Lạc Hà Sơn, liền có sáu người xuất hiện ở nơi Kim Kiều tương liên cùng ngọn Lạc Hà.
Sáu người này đều mặc pháp y, thân tỏa đạo quang, chẳng nhiễm nửa hạt bụi trần; trông tuổi tác đều còn rất trẻ, dường như năm tháng chẳng thể lưu lại vết tích gì trên người họ.
Sáu người ấy bao gồm ba nam, ba nữ. Đôi nam nữ đứng giữa mặc pháp bào đỏ tươi, trên lưng mỗi người đều có một thanh bảo kiếm, ánh mắt của hai người tựa như kiếm quang, sắc bén vô cùng; khi ánh mắt ấy quét qua đám đông trên ngọn Lạc Hà, ai nấy đều cảm thấy rợn cả người.
Hai người bên trái cũng là một nam một nữ. Nữ tử diện mạo thanh khiết, nơi mi tâm điểm một chấm chu sa, khiến nàng trông có vẻ đặc biệt hơn người. Còn nam tử tuy chỉ mặc một thân bạch y, đứng lặng, an nhiên, song lại toát ra khí độ kiên cường.
Đôi nam nữ bên phải lại mặc một thân đạo bào màu xanh ngọc, eo thắt đai xanh, tóc búi cao: Một nam, một nữ, mỗi người đều có dáng vẻ riêng.
Sáu người bọn họ đại diện cho ba môn phái, tuần tự là Thương Lãng Kiếm Cung, Pháp Hoa Mật Tông và Thiên Diễn Đạo Phái. Trong số đó, có hai người đưa mục quang quét qua từng người trong đám đông trên núi. Đại đa số các tu sĩ đều cúi đầu, chẳng mấy ai dám nhìn thẳng ánh mắt ấy; duy chỉ có một nữ tử dám dùng cặp mắt không hề nhượng bộ mà nhìn bọn họ – nữ tử bấy giờ đang ngồi ngay trước cửa Thông Thiên Quán.
Nàng ta chính là Phong Lăng. Người của thượng giới đã đến, không chờ được Thanh Dương Tử, nên Phong Lăng trở ra ngoài.
Đạo hiệu của đôi nam nữ thuộc Thương Lãng Kiếm Cung, hôm nay đến chiêu mộ đệ tử, lần lượt là Lưu Vân và Thái Vân. Hai người họ là đệ tử xuất chúng của Thương Lãng Kiếm Cung, kiếm thuật cao siêu, có thể trảm cả quỷ thần.
Chỉ nghe Lưu Vân cất tiếng, nói bằng giọng sang sảng: “Các ngươi có biết, đợt thăng tiên trước, đứng ngay tại đây cất lời là phái nào chăng?”
Hắn đột nhiên hỏi một câu như thế, khiến đám đông nhất thời không hiểu hắn có ý gì. Ai nấy đều cảm thấy kỳ quái, duy Bố Công tử vui vẻ ra mặt, đáp:
“Đợt thăng tiên trước, đứng ngay chỗ của thượng tiên nói chuyện chính là Thiên Diễn Đạo Phái.”
Lưu Vân híp híp mắt, tròng mắt khẽ ngước lên, như thể chẳng coi ai ra gì, lại tựa như nhìn thấu hết dáng vẻ cùng tâm tư của từng người trong đám đông. Chỉ nghe hắn nói tiếp: “Thế các ngươi có biết người đang nói hôm nay thuộc phái nào chăng?”
Bố Công tử mừng rỡ trong lòng. Cố kiềm nén vẻ hớn hở, trên mặt gã lộ ra một nụ cười méo mó; gã khom mình nói:
“Người đang đứng nói đấy là đệ tử của môn phái ‘biển xanh trập trùng sóng, một kiếm độ hồng trần’ – Thương Lãng Kiếm Cung.”
Gã lớn giọng nói lời này. Trông thấy ý cười lộ ra trên mặt Lưu Vân, gã không khỏi phấn khởi trong lòng: thời cơ của gã biến đổi thật nhanh. Gã lại trộm nhìn hai vị tu sĩ đến từ Thiên Diễn Đạo Phái bấy giờ đang đứng phía sau, chỉ thấy hai người bọn họ quay đầu nhìn sang hướng khác, trước sau không đối mặt với đám đông. Trong lòng Bố Công tử, cảm giác khoan khoái bất giác dâng trào từng trận lâng lâng.
Gã hãy còn nhớ năm ấy gã cùng Thanh Dương Tử đứng ngay tại đây. Hai người đứng ngang nhau, gã cứ thế ưỡn thẳng ngực tự tin; thế mà khi người của Thiên Diễn Đạo Phái lướt mắt qua gã lại chỉ như nhìn vào hư không, chẳng hề dừng lại trên người gã. Đó là lần đầu tiên trong đời gã cảm thấy nhục nhã. Những năm sau đó gã cũng không được chọn, nhưng khi hồi tưởng lại tình cảnh năm ấy, gã vẫn cảm thấy mặt mình nóng bừng.
Hiện giờ, gã trông thấy trên mặt đệ tử của Thiên Diễn Đạo Phái cũng lộ ra vẻ xấu hổ, trong lòng bất giác trào dâng cảm giác hân hoan. Gã lại trộm nhìn người vừa cất tiếng ban nãy – Lưu Vân, chỉ thấy trên môi hắn cũng lộ ý cười, hơn nữa, hắn không hề cố gắng che giấu sự hớn hở ấy.
Bố Công tử hạ quyết tâm, thầm nói: “Nếu hôm nay có thể khiến Thương Lãng Kiếm Cung đắc ý, sao phải lo không thể gia nhập môn phái?!”
Bấy giờ, Lưu Vân lại lên tiếng: “Ha ha, xem ra vẫn còn có người nhận ra bần đạo. Hôm nay, tại nơi này, Thương Lãng Kiếm Cung chiêu mộ nhập thất đệ tử và ký danh đệ tử (2). Người nào đặt chí hướng nơi kiếm đạo, bước cả lên phía trước. Thương Lãng Kiếm Cung mở rộng cửa lớn, không hạn chế số lượng đệ tử.”
Giọng nói của hắn không lớn, song âm thanh lại như mật ngọt nhẹ nhàng rót vào tai từng người một. Nói đến đây, hắn bất giác liếc mắt sang nhìn nữ tử đang ngồi phía trước Thông Thiên Quán. Trông thấy nàng ta cắm trước người một thanh trường kiếm, hắn thầm nghĩ:
“Nữ nhân này đã luyện kiếm, thế thì tại sao khi nghe danh Thương Lãng Kiếm Cung của ta lại chẳng hề động tâm?”
Lúc mới đến đây, chỉ nhìn lướt qua một lần, hắn đã phát giác nữ tử đang ngồi đó là người thích hợp nhất để trở thành đệ tử của Thương Lãng Kiếm Cung. Lúc mục quang chạm nhau, từ trong ánh mắt của Phong Lăng, hắn cảm nhận được tâm tính không biết sợ hãi gì của nàng. Không phải chỉ mỗi Thương Lãng Kiếm Cung coi trọng điều này, các môn phái khác đều như vậy; chẳng qua Thương Lãng Kiếm Cung là môn phái luyện kiếm, nên có phần thiên về những người có thần ý sắc bén như thế.
Khi thu nhận đệ tử, các môn các phái đều không quan tâm đến việc họ đã tu hành loại đạo quyết nào, cũng không để ý xem họ có những loại pháp thuật gì. Hay nói cách khác, họ tu luyện được pháp thuật, càng chứng tỏ họ có thể tu hành.
Tiêu chuẩn khi thu nhận đệ tử của các phái đều đặt nơi thần ý, phải xét xem thần ý của một người thế nào. Thần ý có nhiều dạng, ví như Phong Lăng sắc sảo rõ ràng; lại như Bố Công tử quỷ quyệt, ti tiện; hay như Hoàng Linh yếu ớt mà thanh thuần; hoặc như Thanh Dương Tử tựa vách đá sừng sững…
Ngoài việc quan sát thần ý của một người thuộc dạng nào, mạnh mẽ hay yếu đuối, đương nhiên còn phải thông qua xem xét nhục thân của người đó. Có một số người tuy có thể tu hành, song thân thể lại chỉ như chiếc giỏ tre; tuy rằng người tu hành sau khi nhập môn ắt có được linh lực hộ thân, song một khi rời khỏi môn phái, lại còn phải xem thân thể của người đó là thùng gỗ hay giỏ tre. (3)
Còn đó vô số quy tắc hỗn tạp như xem phẩm tính, tướng mạo, hoặc xem xét xuất thân hay nghe kể về những chuyện người đó đã trải qua… Mỗi phái đều có quy định riêng, song chủ yếu vẫn là quan sát nhục thân và thần ý.
Khi đối mục với Lưu Vân, đôi mắt của Phong Lăng lộ ra thứ thần ý sắc bén tựa như đao kiếm ấy, khiến trong lòng Lưu Vân nảy sinh ý nghĩ muốn chiêu mộ nàng về Thương Lãng Kiếm Cung.
Lời Lưu Vân vừa dứt, đám đông trên đỉnh núi trở nên hỗn loạn, trong số đó có một thiếu niên tầm khoảng mười tuổi lớn tiếng nói: “Đệ muốn gia nhập Thương Lãng Kiếm Cung có được chăng?”
Giọng nói của thiếu niên không lớn, song cất lên vào thời điểm này lại rất rõ ràng. Lưu Vân cười, nói: “Được chứ, đến đây, bần đạo xem nào.”
Hắn vẫy tay gọi thiếu niên đến, xoa xoa đầu cậu bé rồi nói: “Rất tốt. Đệ có thể vào Thương Lãng Kiếm Cung.”
Lời nói đó của Lưu Vân đương nhiên khiến đám đông nhao nhao. Không chờ bọn họ lên tiếng, Lưu Vân lại tiếp tục giới thiệu hai tu sĩ bên trái – người của Pháp Hoa Mật Tông. Nữ đệ tử của Pháp Hoa Mật Tông lên tiếng; sau khi nàng nói xong, mọi người đều ngỡ sẽ đến lượt Thiên Diễn Đạo Phái nói, chẳng ngờ Lưu Vân lại tựa như quên mất Thiên Diễn Đạo Phái.
Mấy lần người của Thiên Diễn Đạo Phái muốn lên tiếng, đều bị Lưu Vân ngắt ngang. Hai vị tu sĩ đó của Thiên Diễn Đạo Phái bị ánh mắt của đám đông tu sĩ nhân gian đổ dồn về, nỗi nhục nhã cùng sự căm phẫn tuy dâng lên trong lòng, song họ lại không thể làm gì hơn.
Thiên Diễn Đạo Phái của hôm nay đã không còn là Thiên Diễn Đạo Phái của ngày xưa. Lần này, họ có thể xuống nhân gian để chiêu mộ đệ tử, cũng là vì đã có được đồng ý của Thương Lãng Kiếm Cung.
————————–
Chú thích:
(1) Nguyên văn là “uyên”, tức “vực sâu”, hoặc “chỗ nước sâu”. Chữ “uyên” này có phần lạ tai đối với độc giả Việt Nam nên Thất Đồng mạn phép đổi lại thành một chữ tương đồng là “vực”.
(2) “Nhập thất đệ tử”: đệ tử chính thức của môn phái; “ký danh đệ tử”: đệ tử danh nghĩa, giống như đệ tử tục gia. Hai cụm từ này tương đương với đệ tử nội môn và đệ tử ngoại môn mà các tác giả tiên hiệp khác thường dùng.
(3) Giỏ tre có nhiều lỗ hở, nếu lấy giỏ tre đựng nước đương nhiên phí công vô ích. Tác giả dùng hình ảnh này để ví von cho người tu hành, nếu thân thể như chiếc giỏ tre, không dung chứa được linh lực, thì cũng không thích hợp để tu hành.núi.
Sau khi một tiếng nói tựa sấm ấy truyền ra từ bên trong Thông Thiên Quán, cặp mắt của Lưu Vân liền lóe lên hai đường kiếm quang. Lúc mới đến Lạc Hà Sơn này, hắn đã biết bên trong Thông Thiên Quán bấy giờ, trừ một đồng tử ra, chẳng còn bóng người nào khác. Thế mà chính lúc này, rõ ràng trong Thông Thiên Quán lại vẫn còn người.
Luồng kiếm quang lóe ra từ trong ánh mắt hắn hóa thành hai thanh kiếm ngắn bay xuyên qua hư không, luồn qua cửa lớn của Thông Thiên Quán. Thế rồi, hai đường kiếm ấy tan biến trong im ắng.
Hai đường kiếm quang hình thành nên từ ánh mắt của Lưu Vân vốn có thể phá được mọi vật cản, thế mà lại tan biến đột ngột như thế, không một chút tăm hơi. Thứ duy nhất hắn có thể cảm nhận được từ bên trong Thông Thiên Quán là một mối nguy hiểm khôn lường đang trào dâng.
“Bên trong Thông Thiên Quán là kẻ nào?” Lưu Vân nghĩ thầm. Trong lòng cả kinh, nhưng ngoài miệng, hắn lại nói:
“Thương Lãng Kiếm Cung thế nào, cũng đâu đến lượt những kẻ cả mặt cũng không dám ló ra đến bình luận.” Hắn âm thầm cảnh giác.
Sư muội Thái Vân đứng bên cạnh hắn. Trong mắt nàng lúc này có ánh sáng muôn sắc tựa mây ráng – đó là đôi mắt thái hồng (*) do nàng hái lấy tinh hoa của mặt trời để luyện thành. Thế nhưng, đôi mắt ấy của nàng lại chỉ có thể trông thấy một miền cát vàng mênh mông, tựa như tiếp liền với chân trời, vô cùng vô tận; phóng tầm mắt đi xa hơn nữa, lại chỉ thấy hoàng hôn rũ bóng.
Nơi đó, cuồng phong gào thét, lại dường như có nghìn vạn binh mã đang cưỡi trên sóng cát mà đến. Sát ý lồng lộng đất trời, khiến tinh thần của Thái Vân bị chấn động mạnh.
Nàng buộc phải dùng pháp ngôn mật ngữ để truyền âm cho Lưu Vân: “Sư huynh, Thông Thiên Quán quá đỗi hung hiểm, không được phép sơ suất.” Có điều, lời nàng chỉ vừa dứt, cửa lớn của Thông Thiên Quán đã mở toang.
Nếu nhìn qua tục nhãn của người trần mắt thịt, Thông Thiên Quán bấy giờ hãy vẫn là Thông Thiên Quán; ngay đến đôi mắt thái hồng của Thái Vân và đôi mắt kiếm của Lưu Vân cũng chẳng thể nhìn thấu được nội tình bên trong ngôi đạo quán ấy.
Khoảnh khắc cửa Thông Thiên Quán mở ra, tu sĩ trên núi đều nhất loạt lùi về phía sau, ánh mắt người nào cũng lộ ra vẻ sửng sốt. Bởi lẽ, ngay khi cánh cửa ngôi đạo quán mở, bọn họ trông thấy một tiểu đồng tử bước ra; điều làm cho họ cảm thấy kinh hãi không phải là tiểu đồng tử ấy, mà là một trận cuồng phong nổi lên từ bên trong đạo quán, cùng lúc với sự xuất hiện của đồng tử.
Nơi nào bên trong đạo quán bị cuồng phong quét qua, nơi ấy đều hóa ra cát vàng. Từng hạt, từng hạt cát bốc lên, chỉ trong chớp mắt đã cuộn thành từng trận phần phật trong gió.
Thông Thiên Quán sụp đổ bên trong trận cuồng phong, nhập thành một thể với cát vàng. Cuối cùng, bọn họ chỉ còn thấy cuồng phong cuộn lấy cát vàng giăng mắc khắp trời đất, tiếp liền đến tận chân trời. Giữa cơn gió cát ấy, tiểu đồng tử quấn một mảnh vải trắng trên trán kia yếu ớt bước về phía trước. Cùng với mỗi bước đi của nó, cát vàng cũng liếm thêm về phía trước một bước. Cả Lạc Hà Sơn cùng với vùng hư không bao bọc nơi ấy đều biến thành cát cả.
“Đây là huyễn tướng!”
Tất cả những người có mặt ở đó đều không dám tin rằng, thực sự có một thế giới cát vàng cứ như vậy mà xuất hiện trước mắt mình. Tuy tâm trí cho rằng đây là huyễn cảnh, song, mắt họ lại chẳng thể nào nhìn thấu được. Thứ sức mạnh đồng hóa vạn vật, che trời lấp đất ấy khiến trong tâm họ cũng mơ hồ hình thành nên một mảng cát vàng – cát vàng lan tràn, mênh mông.
Hai vị đệ tử của Pháp Hoa Mật Tông đưa mắt nhìn nhau, trên mặt họ đều lộ ra vẻ kinh ngạc. Bọn họ buộc phải lùi về sau mấy bước.
Đúng lúc này, tiểu đồng tử kia đã dừng chân bên cạnh một nữ tử trước đó hãy còn ngồi ở phía trước Thông Thiên Quán – Phong Lăng. Tiểu đồng lớn giọng nói:
“Sư huynh bảo: Nếu các người đã là đệ tử của Thương Lãng Kiếm Cung, thế thì phải xem xem các người có thể chi trì được khoảng thời gian là ba nhịp thở trong huyễn cảnh ‘vạn vật quy hư’ (vạn vật trở về với hư không) này hay không. Nếu có thể chi trì được, vậy thì còn giữ được một cái mạng để mà sống; nhược bằng không thể, thì từ nay sẽ chỉ còn là hai bức tượng do cát vàng ngưng tụ thành mà thôi.”
Giọng nói của tiểu đồng tử nghe có vẻ ẩn chứa một sự khiếp nhược, như thể người khác chỉ trừng mắt thôi cũng có thể dọa nó sợ đến phát khóc. Lời lẽ của thằng bé có phần ngập ngừng, nhưng sau khi nó lắp bắp nói xong câu, những tu sĩ nhân gian có mặt trên đỉnh núi bấy giờ đều cảm thấy như có sóng bạc cuộn dâng trong lòng.
Bọn họ đều cho rằng, với một kẻ có thể khiến Liệt Viêm Lão Tổ sống chết thế nào không rõ, lời nói của y há có thể lại vô căn cứ. Tuy nhiên, Liệt Viêm Lão Tổ dù sao cũng chỉ là tu sĩ nhân gian, còn Lưu Vân lại là đệ tử của tiên môn nơi thượng giới, trên người có thần thông vô thượng. Ấy thế mà kẻ trong đạo quán kia lại nói, nếu Lưu Vân và Thái Vân có thể cầm cự được trong ba nhịp thở, mới còn được mạng để sống.
Khẩu khí như thế lại mượn lời của tiểu đồng tử để truyền đạt, vậy mà vẫn có thể khiến bọn họ cảm nhận được sát ý đang bốc lên, khí tức hung hiểm cuồn cuộn trào dâng.
“Ha ha…” Lưu Vân ngẩng mặt lên trời cười lớn, lại nói: “Ba nhịp thở, y cho rằng mình là ai, chân nhân các phái chăng?”
Lời vừa dứt, hai ngón tay hắn bắt thành kiếm quyết điểm lên nền trời. Một đường kiếm quang lạnh lẽo xông thẳng lên không trung: Thanh kiếm trên lưng hắn đã hóa thành kiếm quang. Kiếm quang khuếch tán, một kiếm ấy hóa thành hàng trăm hàng nghìn thanh kiếm lơ lửng giữa nền trời ngay phía trên đầu Lưu Vân. Ngay sau đó, giữa vùng ánh sáng chói lòa, luồng kiếm quang xông thẳng lên nền trời, bốc cao những mười mấy trượng.
Tiếng kiếm vút lên lảnh lót, ngân nga mãi chẳng dứt.
Trong tiếng kiếm vút, hàng nghìn hàng vạn thanh kiếm hợp thành một thanh kiếm khổng lồ. Trong sát na khi thanh kiếm đó kết tụ, Lưu Vân gầm lớn một tiếng, trên chín gầm trời chẳng biết từ đâu lại có tiếng sấm vang dậy.
Sát khí lồng lộng, gió lạnh cắt da.
Những tu sĩ trên Lạc Hà Sơn đều cảm thấy như có lưỡi đao chém qua tâm mình, bất giác toàn thân ớn lạnh.
Đấy chính là bản lĩnh thần thông của tu sĩ kiếm đạo. Đấy cũng chính là cảnh giới nhập vi, khi uy thế pháp thuật đã chiếu rọi tâm cảnh. Ở nhân gian, chỉ những nhân vật thiên tài danh chấn thiên hạ đã trăm năm mới có thể đạt đến cảnh giới ấy. Điều này khiến các tu sĩ trên Lạc Hà Sơn càng thêm chú tâm đến những người đã được chọn vào Thương Lãng Kiếm Cung; đồng thời, họ cũng đã được tận mục sở thị sự cách biệt giữa tu sĩ nhân gian với tu sĩ nơi thượng giới.
Càng lúc, bọn họ càng có lòng tin nơi Lưu Vân, đều thầm nghĩ trong lòng:
“Thiên Diễn Đạo Phái đã ở ngay mép vực diệt vong, mà Thanh Dương Tử lại là kẻ bị trục xuất khỏi sư môn vào hai mươi năm trước. Cho dù hai mươi năm nay, y tu luyện được thứ thần thông kinh thiên động địa, thắng được Liệt Viêm Lão Tổ; nhưng Liệt Viêm Lão Tổ lại chỉ là tu sĩ nhân gian, còn Lưu Vân lại là tu sĩ nơi thượng giới. Giữa Lưu Vân với Thanh Dương Tử, ai thắng ai bại, hãy còn chưa biết.”
Một kiếm chém xuống, chém toạt hư không.
Trong sát na nhát kiếm chém xuống, khoảnh trời đất lồng lộng cát vàng kia cũng dữ dội cuộn trào về phía Lưu Vân. Phần đất trên sườn núi nơi bọn họ đang đứng chỉ trong chớp mắt đã hóa ra cát. Giữa cơn gió cát phủ trời lấp đất ấy, ai nấy đều theo phản xạ, thi triển pháp thuật tự bảo vệ mình. Chỉ thấy ánh sáng lấp loáng lộng lẫy, chú quyết khi thăng khi giáng hỗn loạn.
Thế nhưng khi cát vàng cuộn qua đám đông, bọn họ đều cảm thấy đó chỉ là huyễn tướng, tựa như chiếc bóng trên mặt nước. Không một ai bị trận cát ấy làm tổn thương.
Đến lúc bọn họ quay đầu lại, đã thấy trước mắt xuất hiện một người do cát đắp thành. Kẻ đó diện mạo sống động như thật, tay phải cầm một thanh trường kiếm cũng đắp từ bùn đất, tay điểm chênh chếch lên nền trời: Nếu không phải kẻ mới một khắc trước còn ngạo khí xung thiên – Lưu Vân Chân Nhân, thì có thể là ai nữa? Cả người hắn lúc này đã thực sự trở thành một bức tượng cát.
Đứng bên cạnh hắn, Thái Vân vừa cả kinh vừa phẫn nộ, nhưng nàng lại không dám nhúc nhích; bởi chính trong sát na đó, nàng đã cảm nhận được, dường như trong trận bão cát kia còn có một thế giới khác: Chính thế giới đó đã cuốn đến, ngốn lấy Lưu Vân. Bị khoảnh thiên địa trào dâng cát vàng đó nuốt lấy, Lưu Vân đã biến thành một bức tượng cát chỉ trong nháy mắt.
“Đây là Đạo Chân Hư, từ huyễn ảo đi đến chân thực. Nhân gian từ bao giờ lại xuất hiện một nhân vật như thế này?” Thái Vân nghĩ đến đây, trong lòng cả kinh. Nàng gắng gượng trấn định tinh thần, cất tiếng: “Chẳng hay vị chân nhân nào đang ở trong đạo quán?”
Tiếp lời nàng, một giọng nói cất lên: “Bần đạo Thanh Dương Tử, Thái Vân tiên tử có lẽ đã quên rồi chăng?”
Liền sau đó, nơi cửa lớn của Thông Thiên Quán có một người xuất hiện, là một đạo nhân. Đạo nhân ấy mặc đạo bào tía, đội mũ sắc tía. Trước khi y xuất hiện, nơi cửa lớn của ngôi đạo quán không có một bóng người, cứ như thể y đã bước ra từ trong cõi hư vô.
Đạo nhân áo tía bước ra từ Thông Thiên Quán đó, vóc dáng cao ráo gọn gàng, gương mặt hơi gầy gò. Y đứng đấy, cả người hiện ra rõ rành rành; song đám đông lại có cảm giác như thể y là một vách núi bị mây mù bao phủ. Đạo nhân ấy, thần bí tựa một ngọn núi sừng sững, khiến người ta phải ngước mắt mà nhìn.
Vừa thoạt trông, Thái Vân đã nhận ra ngay đó là Thanh Dương Tử – y vẫn giống hệt như hai mươi năm về trước. Nàng gặp y ở Vạn Tượng Pháp Hội, đương khi ấy, Thanh Dương Tử rực rỡ vô song; thế nên, tuy chỉ mới gặp qua một lần, nàng lại vẫn còn nhớ rất rõ.
Một Thanh Dương Tử bị trục xuất khỏi Thiên Diễn Đạo Phái hai mươi năm về trước, giờ đây lại xuất hiện ở chốn này, hiển lộ bản lĩnh vô song. Nỗi áp lực đến từ Thanh Dương Tử khiến Thái Vân có cảm giác như thể mình đang đối diện với Chưởng môn và các vị trưởng lão.
“Là ngươi, Thanh Dương Tử…” Giọng nói của Thái Vân không lớn, dường như nàng có phần chẳng dám tin vào sự trở lại của Thanh Dương Tử.
Còn Mộc Dương và Dung Dương đều vui mừng khôn xiết, lớn tiếng gọi: “Sư huynh, rốt cuộc huynh cũng trở về rồi!”
Trước đó, khi nghe thấy giọng nói của Thanh Dương Tử truyền ra từ bên trong Thông Thiên Quán, hai người họ đều đã ngờ ngợ rằng đó có thể là Thanh Dương Tử. Tuy vậy, trong thâm tâm, họ đều không dám chắc chắn về khả năng đó. Chỉ đến khi Thanh Dương Tử xuất hiện ngay phía trước đạo quán, họ mới dám tin vào phán đoán của mình. Dung Dương trông thấy nụ cười hững hờ mà ấm áp của Thanh Dương Tử, trong lòng nàng bỗng dâng dậy một cảm giác chua xót.
Nàng cứ thế lẩm bẩm, nói đi nói lại mãi một câu: “Sư huynh vẫn còn sống, sư huynh vẫn còn sống…”
Cho đến nay, nàng vẫn còn nhớ rõ cảnh tượng năm ấy, vị sư huynh tựa như viên minh châu sáng rực trong đêm của nàng bị tước đoạt hết pháp cơ, linh lực tan tác cả. Khoảnh khắc đó khiến người ta đau lòng xiết bao! Lúc ấy sư huynh bị đánh ngã từ trên mây cao xuống tận bùn lầy, từ tiên môn thượng giới rơi xuống phàm trần nhân gian. Các sư huynh sư đệ trong phái đều luận bàn xôn xao; nhưng họ không bàn nhau về chuyện khi nào thì Thanh Dương Tử sư huynh có thể khôi phục lại tu vi, mà là, liệu huynh ấy có thể sống nổi qua tai kiếp này hay không.
Mộc Dương thì không kiềm được nỗi kích động, bèn cất chân bước về phía trước. Sau khi buột miệng gọi “Thanh Dương sư huynh”, gã không nói nên lời nữa, cảm giác như có thứ gì đó nghẹn lại trong lòng.
Thanh Dương Tử từng là niềm kiêu hãnh của Thiên Diễn Đạo Phái, cũng là niềm tự hào trong hệ phái của Mộc Dương và Dung Dương. Thanh Dương Tử bị trục xuất khỏi sư môn rồi, tất cả vinh quang ấy đều tan biến.
Thanh Dương Tử đứng đấy, sừng sững tựa như một ngọn núi tự tại, cao vút tận mây xanh. Y chỉ đứng lặng yên như thế, mà đã khiến người khác phải sinh lòng khiếp hãi.
“Hai mươi năm không gặp, Thanh Dương đạo huynh sao lại đường đột xuống tay độc ác như thế. Đạo huynh không sợ sẽ vời lấy họa diệt môn cho Thiên Diễn Đạo Phái sao?!” Thái Vân khẽ híp đôi mắt thái hồng, lạnh lùng nói. Đôi phượng nhãn của nàng bấy giờ lóe lên một thứ ánh sáng lạnh lẽo.
Từ đầu đến giờ đều là Lưu Vân cất tiếng nói, nên chẳng ai hay rằng, giữa hai người bọn họ, Thái Vân mới là nhân vật chủ chốt. Trên người nàng bấy giờ có một món bảo vật của Thương Lãng Kiếm Cung, gọi là bình Tứ Hải. Bình ấy nếu trút xuống, ba đào bốn bể cuộn dâng.
Nụ cười ấm áp trên môi Thanh Dương Tử khi y nhìn Mộc Dương và Dung Dương, đã vụt tắt lúc y đưa mắt về phía Thái Vân tiên tử. Y từ tốn nói: “Thương Lãng Kiếm Cung từ lâu đã muốn diệt Thiên Diễn Đạo Phái đúng chăng? Trên người các ngươi có pháp ý của Thiên Diễn Đạo Phái, há có thể giấu được ta?”
Y nói lời ấy, càng về sau càng nhẹ giọng, nhưng sát ý lại mỗi lúc một thêm nồng nặc. Lời nói tựa như lách ra ngoài qua kẽ răng, hóa thành một mũi dao sắc nhọn.
Thái Vân tiên tử đưa mắt nhìn về phía hai vị đệ tử của Pháp Hoa Mật Tông, thì phát giác trên mặt bọn họ đều lộ ra sự thận trọng, cảnh giác. Ấy là bởi Thanh Dương Tử đã nói “các ngươi”, mà Pháp Hoa Mật Tông cũng đã thu nhận một vị trưởng lão của Thiên Diễn Đạo Phái; pháp ý mà vị trưởng lão kia mang theo cũng đã dung hòa vào trong pháp cơ của Pháp Hoa Mật Tông.
“Pháp ý trong thiên hạ, tùy duyên mà có được, lại tùy duyên mà diệt. Từ khi Thiên Diễn Chân Nhân sáng lập Thiên Diễn Đạo Phái đến nay đã bảy trăm hai mươi năm, nay cũng đã đến lúc Thiên Diễn Đạo Phái các người phải hoại diệt. Hai mươi năm trước, phong thái của ngươi khi ở Vạn Tượng Pháp Hội, bọn ta đều nhớ rất rõ, nhưng phong thái ấy cũng không đủ để khiến đệ tử của Thương Lãng Kiếm Cung phải khiếp sợ.”
Lời vừa dứt, trong lòng bàn tay của Thái Vân đã xuất hiện một cái bình nhỏ. Trên bình có một bức họa mô tả cảnh tượng biển xanh khuynh đảo bầu trời, miệng bình và đáy bình đều to như nhau, cổ bình thon dài lại tinh tế. Cả cái bình tỏa ra pháp ý mãnh liệt, người ngoài nếu định thần nhìn sẽ thấy như trước mặt là vạn trượng biển xanh, ba đào cuồn cuộn.
Hiện tại Thất Đồng có điều chỉnh đôi chỗ cho bản dịch của các chương trước. Mời các đạo hữu cập nhật cũng như đón đọc chương truyện chính xác nhất tại diễn đàn Bạch Ngọc Sách.
———————————
Chú thích của người dịch:
(*) “Thái hồng”: cầu vồng. Nguyên văn cụm này khi dịch ra tiếng Việt là “cặp mắt bảy màu”, nghe khó chịu quá nên Thất Đồng mượn dùng hai chữ “thái hồng” để thay thế..
Ma chủng giết chóc ấy trước nay chỉ là một tia ma niệm trong tâm Thanh Dương Tử. Giờ đây, sau khi nuốt lấy sát ý trong lòng Thái Vân, ma chủng đã có hình dạng. Tuy vậy, ma chủng vẫn chưa hiển hóa thành ma tướng thực sự.
Ngộ Chân đứng lửng lơ giữa không trung, đưa mắt nhìn về phía Thanh Dương Tử bấy giờ đang đứng trên đỉnh núi. Gã lạnh lùng nói:
“Hai mươi năm trước, ta đã nghe danh của ngươi. Nghe nói ngươi luận đạo bàn pháp ở Vạn Tượng Pháp Hội, tâm ta tuy không phục, nhưng vẫn kính nể ngươi. Chỉ tiếc năm đó không có dịp gặp gỡ.
Hai mươi năm sau khi gặp lại ngươi, kẻ mà ta thấy trước mắt đây chẳng qua chỉ là một cái ngữ ô uế đầy ma niệm. Trong mắt ngươi, ta chỉ thấy nào là chém chém giết giết, phẫn nộ, oán khí… Người mà ta gặp hôm nay, nào phải đạo nhân rực rỡ tiên quang năm đó, có chăng chỉ là một kẻ nửa người nửa ma, thân quấn trong tầng tầng tục khí…”
Đứng lặng trên đỉnh Lạc Hà Sơn, Thanh Dương Tử ngẩng đầu nhìn Ngộ Chân. Những lời Ngộ Chân vừa nói đó khiến cho sóng lòng Thanh Dương Tử lăn tăn gợn. Y hiểu rõ, dù bản thân đã tu hành qua hai mươi năm ở nhân gian, y vẫn chưa thể đạt đến cảnh giới mà y hằng truy cầu – cái cảnh giới linh đài tựa giếng trong, phản chiếu ánh nhật nguyệt viễn cổ, nước giếng không chút gợn, soi rọi cả càn khôn…
Thanh Dương Tử không nói gì, chỉ lẳng lặng đứng đấy, trầm mặc. Y biết rõ Ngộ Chân đang thi triển “Tịnh Thế chú” lên y.
Pháp Hoa Mật Tông là một nhánh của Phật môn. Tuy đại đạo yếu quyết của môn phái này phần nhiều khác với Thiên Diễn Đạo Phái và Thương Lãng Kiếm Cung, song cũng không hẳn khác biệt hoàn toàn mà vẫn có đôi chỗ tương đồng.
“Tịnh Thế chú” có thể được coi là pháp thuật, cũng có thể không. Nói đúng hơn, đó là một thứ chân ngôn, có thể trực chỉ (1) tâm linh con người; tuy sự biến hóa bên trong đó khác với thiên ma của Thanh Dương Tử, song diệu dụng thì lại tương đồng. Hơn nữa, “Tịnh thế chú” lại ẩn trong lời nói chân thật để thi triển, khiến kẻ khác có đề phòng cũng vô dụng.
Thanh Dương Tử đã từng chứng kiến một vị trưởng lão của Pháp Hoa Mật Tông thi triển “Tịnh Thế chú” ở Vạn Tượng Pháp Hội, uy lực của pháp chú khi đó tựa thiên lôi, cuồn cuộn dâng trào. Những lời lẽ ấy rõ ràng rất đỗi bình thường, thế mà lại có thể khiến lòng người thấp thỏm, sóng lòng khi thăng khi giáng, tựa hồ chỉ muốn thả mình đi theo lời ấy, vĩnh viễn túc trực bên cạnh để nghe lời giáo huấn. Nếu so với vị trưởng lão đó của Pháp Hoa Mật Tông, Ngộ Chân đương nhiên chẳng sánh bằng, song gã cũng đã nắm được chân ý bên trong “Tịnh Thế chú”.
Năm đó Thanh Dương Tử tu luyện đại đạo yếu quyết chân chánh, thuần khiết của Thiên Diễn Đạo Phái, y đương nhiên không sợ “Tịnh Thế chú”. Nhưng hai mươi năm sau, khi nghe lại chú này, sóng lòng y lại vẫn lay động. Ấy là bởi hiện tại y tu luyện “Tha tâm thiên ma hiển diệu thiên”, trong tâm ẩn giấu không ít ma niệm, trong đó lại có hai thiên ma đã hiển hóa thành hình. Nếu cứ tiếp tục bị “Tịnh Thế chú” ấy làm lay động sóng lòng, gây chao đảo thế giới tâm linh, những thiên ma kia ắt sẽ quật lại, nuốt lấy tâm y. Đến lúc đó, tu vi một đời của Thanh Dương Tử sẽ hóa ra mây khói chỉ trong một sát na.
Song, bấy giờ Thanh Dương Tử lại đang mượn “Tịnh thế chú” của Ngộ Chân để tôi luyện tâm chí của mình.
Chỉ thấy đôi bàn tay của Ngộ Chân chắp thành liên hoa, người gã tỏa ra ánh sáng chói lọi, hình tướng gã uy nghiêm, cả người trông tựa Tịnh Thế Lưu Ly (2) chẳng khác. Gã vẫn đang nói, lời lẽ đã chuyển hóa từ lời khuyên răn bình thường sang chú ngôn thuần túy. Chỉ thấy kim liên từng đóa nở rộ giữa hư không, hương thơm ngào ngạt khắp chốn. Kim liên hạ xuống đất, hóa thành dòng suối vàng chảy trôi.
Mặt đất nơi Thanh Dương Tử đang đứng đã bị dòng suối bao bọc lấy. Dòng kim tuyền đang dâng trào ấy lại hóa thành một đóa kim liên hư ảo dưới chân Thanh Dương Tử. Trong chớp mắt ấy, khi kim liên thành hình, những oán ma, bi ma cùng ma chủng giết chóc trong lòng Thanh Dương Tử đều đang gào thét. Vốn dĩ chúng bị gông xiềng, trong khoảnh khắc này lại đều mong vùng thoát, bởi chúng cảm nhận được những gông xiềng kia đang lỏng dần.
Thanh Dương Tử nhắm mắt lại.
Bên trong thế giới tâm linh của y, một viên minh châu đang lửng lơ giữa không trung. Ánh sáng vàng rực tỏa ra từ viên minh châu chiếu rọi tứ bề tựa lửa.
Một người trông giống hệt Thanh Dương Tử đang đứng trong vùng sáng rực rỡ ấy. Người đó chính là bản ngã tướng của Thanh Dương Tử, đã hình thành từ sự kết tinh ý chí bản ngã của y.
Bản ngã tướng là một cảnh giới tu dưỡng bản thân trong “Tha tâm thiên ma hiển diệu thiên”. Chỉ khi kết tinh thành bản ngã tướng rồi, mới có thể chịu đựng được sự quấy nhiễu của thiên ma sau khi chúng thành hình trong lòng, cũng như việc thiên ma nuốt phản công, nuốt lấy tâm thức của bản thân.
Bên trong thế giới tâm linh của Thanh Dương Tử bấy giờ, bi ma cùng oán ma lao ra từ trong bóng tối, vây lấy bản ngã tướng của y mà gầm gừ.
Hai chủng ma bấy giờ chưa hiển hóa, chỉ có thể dùng cách này để gây ảnh hưởng lên Thanh Dương Tử. Còn thiên ma đã sinh thành từ bên trong cơ thể của Thái Vân Tiên Tử – ma chủng giết chóc, lúc này lại cầm kiếm bay lượn trên đầu Thanh Dương Tử, thanh kiếm trong tay nó đang nhắm thẳng vào y.
Giữa không trung, ngọn lửa bên trên oán ma pháp châu lại đang lan ra. Pháp tướng khổng lồ của oán ma hiện hình, song lại không sao có thể vùng thoát khỏi oán ma pháp châu.
Bi ma lãng đãng một màu xanh lơ, oán ma hiện trong sắc đỏ, ma chủng giết chóc lại mang màu của máu. Thảy đều đang bao vây lấy bản ngã tướng của Thanh Dương Tử, hòng hủy diệt thứ ấy.
oooOoOoOooo
Tú Am đứng quan sát, thở phào nhẹ nhõm. Nàng đương nhiên cũng là đệ tử của Pháp Hoa Mật Tông, song Pháp Hoa Mật Tông phân thành hai bộ phận, nên không như Ngộ Chân, Tú Âm được xếp vào các đệ tử thuộc chữ “Tú”. Trông thấy Ngộ Chân đã niệm rõ ra “Tịnh Thế chú”, mà Thanh Dương Tử lại vẫn chưa có lấy bất kỳ phản ứng nào, nàng nhận ra những lời trước đó của Ngộ Chân chẳng qua chỉ để che giấu “Tịnh Thế chú” ở bên trong.
Tú Am tin rằng, với ma đạo pháp môn mà Thanh Dương Tử đang tu luyện, thứ y sợ nhất chính là những thuật công tâm giống như “Tịnh Thế chú”. Cứ trông bộ dạng của y, thì y ắt đã lọt thỏm vào vũng lầy, bị tâm ma ập ngược lại nuốt lấy. Rơi vào tình cảnh ấy, không ai có thể vùng thoát; bằng không, vì lý gì Thanh Dương Tử vẫn cứ đứng đấy, không hề động đậy.
Ở bên kia, Dung Dương và Mộc Dương lại nghe tim mình đập mạnh trong lồng ngực.
Bình Tứ Hải của Thái Vân tiên tử chẳng qua cũng chỉ mang uy lực của ngoại vật, cho dù Thanh Dương Tử không thể địch lại, thì y vẫn có thể lánh đi. Thế nhưng lúc này Thanh Dương Tử lại đứng yên không cử động; bốn bề xung quanh y, kim liên cuộn trào. Còn “Tịnh Thế chú” miên man không dứt kia cứ thế rót mãi vào tâm, ngay cả Dung Dương và Mộc Dương đều cảm thấy tâm ý chao đảo, cảm xúc cuồn cuộn ngổn ngang trong lòng.
“Tịnh Thế chú” còn được gọi là “Trừ ma chú”, nếu được người của Pháp Hoa Mật Tông tụng niệm, thì có thể tĩnh tâm, lại có thể ngăn không cho tâm ma xâm nhập; nhưng nếu chú ấy lọt qua tai người của môn phái khác, thì mỗi môn mỗi phái sẽ nghe ra một ý vị khác nhau. Pháp môn mà vừa nãy Thanh Dương Tử thi triển, Dung Dương và Mộc Dương đều đã nhận ra. Đấy chính là ma đạo pháp môn đã khiến Thanh Dương Tử bị trục xuất khỏi sư môn nắm đó. Hai người đều không ngờ được sư huynh chẳng những không bỏ cuộc, mà ngược lại đã thực sự tu luyện đến cảnh giới hiển hóa thành thiên ma.
Dung Dương và Mộc Dương đều chẳng rõ đại đạo pháp môn ấy cụ thể là như thế nào, nhưng trong cảm nhận của hai người, đó là đạo của tà ma. Thế nên lúc này hai người họ mới đâm ra lo lắng đến thế.
Khi hai người xuất thủ, định bụng cứu Thanh Dương Tử, thì Tú Am cũng ra tay. Nàng ta chỉ mới bước về phía trước một bước, đã khiến Mộc Dương và Dung Dương không thể cử động. Hai người cảm thấy như thể trước mặt có một con sông lớn chảy qua, ngăn mình lại.
“Kẻ này đã rơi vào ma đạo. Ngộ Chân sư huynh đang độ y, mong hai vị đừng quấy rầy thì hơn.”
Dung Dương nóng lòng nhìn Mộc Dương, Mộc Dương lại chỉ im lặng, không nói lời nào. Đột nhiên, gã đưa tay chỉ lên trời, giữa bầu không lập tức xuất hiện một cái ấn lớn màu trắng. Cái ấn lớn vừa xuất hiện, gió từ đâu nổi lên, mây theo đó vần vũ, có mấy tia chớp lóe lên bên trên cái ấn. Bùa chú dưới đáy ấn chuyển thành màu bạc, xoay vần tựa ánh chớp.
Cái ấn đó chính là “Hoán lôi tổng võng đại ấn” (3). Nếu mượn ấn này để thi triển Cửu tiêu thiên lôi chú, thì uy lực của pháp chú sẽ càng lớn. Mộc Dương vừa ra tay, đã dùng đến pháp thuật duy nhất mà gã còn có thể dùng được trong thời điểm hiện tại, cũng là thứ pháp thuật có uy lực lớn nhất mà Thiên Diễn Đạo Phái sử dụng để ứng phó với cường địch.
Còn Dung Dương, sau khi Mộc Dương thi triển Cửu tiêu thiên lôi chú, cũng lập tức mở miệng thi triển huyền chú. Một làn khói xanh phụt ra từ miệng nàng, trong chớp mắt đã hóa thành một con rắn xanh. Thanh xà vừa vặn mình trong hư không đã biến mất ngay lập tức. Khi nó tái xuất thì đã ở ngay trước mặt Tú Am, lại hóa ra một sợi dây xanh quấn lấy Tú Am, tỏa ra từng đợt ánh sáng. Dây ấy là một trong số các loại “Khốn tiên thằng” (dây trói tiên). “Khốn tiên thằng” vốn là tên của một loại pháp thuật; Thiên Diễn Đạo Phái cũng có pháp thuật tương tự, gọi là “Nhất niệm khốn linh pháp chú”.
Dung Dương cùng Mộc Dương là đệ tử đồng môn, lại cùng một chi hệ, đã tu luyện cùng nhau qua mấy mươi năm. Khi Mộc Dương đột ngột ra tay, nàng cũng lập tức xuất thủ. Nên biết Cửu tiêu thiên lôi chú của Mộc Dương dẫu có uy lực rất lớn, song cũng không thể công phá sức mạnh của kẻ địch chỉ trong thời gian ngắn; tuy vậy vẫn có thể thu hút sự chú ý. Còn “Nhất niệm khốn linh pháp chú” của Dung Dương tuy chỉ dùng để cầm chân địch nhân, nhưng cũng có thể khiến Tú Am nhất thời chẳng thể động đậy, như vậy Cửu tiêu thiên lôi chú của Mộc Dương có thể thi triển thuận lợi.
Hai người phối hợp cực kỳ ăn ý. Nếu Tú Am bị Cửu tiêu thiên lôi chú này giáng xuống người, cho dù nàng ta có ba đầu sáu tay cũng phải bị thương nặng.
Chỉ thấy giữa nền trời, ánh chớp phát ra từ cái ấn mỗi lúc một nồng hậu. Sợi dây xanh đang quấn lấy Tú Am lại đột nhiên bốc cháy. Lửa đó chẳng phải lửa phàm, mà là một thứ mật pháp của Pháp Hoa Mật Tông, tên gọi “Tịnh Thế Lưu Ly Diệm” (“diệm”: lửa); tuy chẳng đốt được vật hữu hình, song lại có thể thiêu linh niệm cùng pháp chú. Chẳng hạn như “Nhất niệm khốn linh chú” này, cũng có thể bị thiêu đốt dưới ngọn lửa Tịnh Thế Lưu Ly kia. Ngay đến dấu ấn thần niệm bên trong pháp bảo cũng sẽ bị thiêu cháy…
Hiện tại Thất Đồng có điều chỉnh đôi chỗ cho bản dịch của các chương trước. Mời các đạo hữu cập nhật cũng như đón đọc chương truyện chính xác nhất tại diễn đàn Bạch Ngọc Sách.
———————————
Chú thích của người dịch:
(1) “Trực chỉ”: chỉ thẳng, điểm thẳng vào. “Trực chỉ”, “kiến tánh”, đều là những thuật ngữ thông dụng trong triết lý của Phật giáo đại thừa, xuất phát từ bài kệ kinh điển của Bồ Đề Đạt Ma sư tổ: “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ chân tâm, Kiến Tánh thành Phật.” Vì vậy người dịch chủ trương giữ nguyên từ Hán Việt là “trực chỉ” để không làm thay đổi ý cảnh trong câu này của tác giả.
(2) “Tịnh Thế Lưu Ly”: “ngọc báu nơi tịnh thế”.
“Tịnh” tức “sạch sẽ”, “thanh tịnh”, “lóng trong”; “thế” tức “thế giới”, “thế gian” hoặc “cuộc đời”. Người dịch không tìm thấy cách định nghĩa thống nhất cho từ “tịnh thế” này, nhưng đoán hàm nghĩa có lẽ là “thế giới thanh tịnh, trong sạch”.
“Lưu Ly”, tức ngọc Lưu Ly, tên tiếng Hán của ngọc Ma Ni, một thứ ngọc quý. Phật giáo Đại Thừa dùng ngọc này để ví von chân tâm của con người, đồng nghĩa với “bản tánh Như Lai”, “Như Lai tạng”, “Tánh Không”, “Phật Tánh, hay “Chân lý tuyệt đối” như cách gọi của thiền sư Osho. “Tịnh Thế” và “Lưu Ly” trong ngữ cảnh này có lẽ đều dùng ám chỉ bản tánh của con người và vạn vật sinh linh, tương đồng với các khái niệm “Đạo”, “Cốc Thần”, “cửa Huyền Tẫn” v.v. của Đạo giáo.
Phật giáo và Đạo giáo tuy là hai tông phái khác nhau, nhưng tựa như hai dòng chảy cùng hướng về một mối, như sông đổ về bể lớn; thế nên tư tưởng của hai bên sẽ có chỗ gặp nhau. Điều này không có gì lạ, bởi lẽ Đạo chỉ có một, là chân lý trên tất cả chân lý; mà chân lý thì ở ngay đấy không dời đổi, có khác chăng là người ta dùng con đường gì, phương tiện nào để đạt đến chân lý. Không ít người đời cho rằng cạo đầu, quy y, hành thiện mới là tu Phật; hay đánh đồng những hình thức như lên đồng, bói toán, lập đạo tràng, luyện đan, luyện khí v.v. với việc tu Đạo. Kỳ thực, đây là những quan niệm chưa đúng. Tu hành, bất kể tu Phật hay tu Đạo, đều là chuyện tu tâm. Phàm bỏ tâm ra mà tu, thì tu như thế là “chẳng biết gốc”, như lời ẩn sĩ Dương Chơn Tử nói.
“Tịnh Lưu Ly” cũng là tên gọi của Dược Sư Lưu Ly Quang Phật.
(3) “Hoán lôi tổng võng đại ấn”: tạm dịch “cái ấn lớn có thể chiêu gọi sấm sét dệt thành lưới giăng khắp trời” Hiện tại Thất Đồng có điều chỉnh đôi chỗ cho bản dịch của các chương trước. Mời các đạo hữu cập nhật cũng như đón đọc chương truyện chính xác nhất tại diễn đàn Bạch Ngọc Sách.
* Chương này có sử dụng lại một số thuật ngữ khó từ chương trước, các đạo hữu tham khảo chương trước hoặc vào forum thảo luận nếu có chỗ không hiểu.
Trong chương này cũng có đôi chỗ tác giả dùng đến những thuật ngữ, thành ngữ hoặc điển cố rất hàm súc, nên Thất Đồng có diễn đạt thêm hoặc cải biên lại câu từ để độc giả dễ hình dung hơn. Từ ngữ có thể có thêm thắt, đẽo gọt, hoặc thay đổi chút ít, nhưng ý cảnh của nguyên tác thì Thất Đồng vẫn cố gắng đảm bảo. Những chỗ thay đổi, Thất Đồng sẽ cập nhật chú thích sau (vì tuần này bận quá không có thời gian), thành thật cáo lỗi với bạn đọc.