Truy Tìm Sự Thật

CHƯƠNG 4


Chiếc taxi thả Shaw xuống khách sạn Amstel Intercontinental đồ sộ. Khách sạn này có bảy mươi chín phòng cực kỳ tráng lệ, nhiều phòng có góc nhìn ra sông Amsterdam khiến người ta phải ghen tị – dù Shaw đến đây không phải để ngắm cảnh.
Theo đúng vai cần đóng trong ba ngày tới, Shaw là một du khách đến thành phố. Chỉ có vài nơi phù hợp với công việc này hơn Amsterdam – thành phố có bảy trăm năm mươi ngàn dân; đủ một nửa trong số đó sinh ra trên đất Hà Lan. Shaw đi ngắm cảnh một lượt bằng thuyền, hào hứng chụp ảnh về một thành phố có nhiều kênh hơn Venice với gần mười ba ngàn cây cầu trên một diện tích chỉ chừng hai trăm ki-lô-mét vuông mà khoảng một phần tư là mặt nước.
Shaw đặc biệt chú ý tới những con thuyền kiêm nhà ở (có đến gần ba ngàn chiếc) đậu dọc theo các con kênh, chúng hấp dẫn ông bởi có những rễ bám, dù nổi trên mặt nước, những con thuyền ấy chẳng bao giờ di chuyển. Chúng được truyền lại từ đời này qua đời khác hoặc được bán thẳng. Trong lòng Shaw tự hỏi, nếu gắn bó với một nơi thì sẽ thấy thế nào?
Sau đó Shaw mặc quần soóc, đi giày và chạy bộ quanh khu vực rộng thoáng của công viên Ooster gần khách sạn ông ở. Nói một cách rất thật, Shaw đã chạy suốt cả đời mình. Hừm, nếu mọi thứ diễn ra đúng như kế hoạch thì sẽ kết thúc như vậy. Hoặc là thế hoặc ông sẽ chết. Ông sẽ vui vẻ đối mặt với rủi ro. Xét theo một góc nào đó, ông đã chết rồi.
Vừa nhấm nháp cà phê tại Bull Dog – chuỗi hàng cà phê nổi tiếng nhất Amsterdam, Shaw vừa quan sát những người làm công việc của họ. Ông cũng quan sát những kẻ rõ ràng đang theo dõi mình. Thực sự đó là những tay theo dõi thật tệ hại, thực hiện công việc của mình nhưng chẳng biết mô tê gì để làm sao thực hiện việc ấy cho đúng cách.
Ngày hôm sau Shaw ăn trưa ở một trong những nhà hàng ông ưa thích trong thành phố, chủ nhà hàng là một người Italia trung tuổi. Bà vợ ngồi ở một bàn đọc báo suốt ngày trong lúc ông chồng đảm nhiệm vai trò của cả bồi bàn, bếp trưởng, nhân viên dọn bàn, nhân viên rửa bát, thu ngân. Nhà hàng chỉ đặt bốn chiếc ghế kiểu quầy bar và năm chiếc bàn – không kể chiếc của bà vợ, các vị muốn làm khách hàng phải đứng ở lối vào và chịu sự theo dõi của ông chồng. Nếu ông ta gật đầu, bạn được phép vào ăn. Nếu ông ta quay đi, xin mời tìm chỗ khác.
Shaw chưa bao giờ bị khước từ. Có lẽ nhờ thân hình hộ pháp của ông, hoặc nhờ đôi mắt xanh có sức hút mạnh mẽ xoáy vào người khác. Nhưng nhiều khả năng nhất là ông và chủ quán từng làm việc với nhau, mà đó không phải việc liên quan đến ăn uống.
Đêm đó Shaw mặc complê và xem một vở opera ở nhà hát Muziek. Khi vở kịch kết thúc, có thể đi bộ trở lại khách sạn nhưng Shaw lại chọn hướng ngược lại. Đêm nay mới là lý do thực sự ông tới Hà Lan, Shaw không còn là một khách du lịch nữa.
Khi bước vào khu phố đèn đỏ, Shaw trông thấy có gì đó diễn ra trong cái ngõ rất hẹp. Một thằng bé đứng trong bóng tối, bên cạnh nó là một gã đàn ông trông có vẻ thô nháp, khoá quần kéo xuống, một tay gã thọc vào quần thằng bé.
Trong chốc lát Shaw đổi hướng đi. Ông lướt vào cái ngõ hẹp và nện một cú thôi sơn vào gáy gã đàn ông. Đó là một đòn đã được tính toán lực trước, chỉ nhằm hạ gục chứ không kết liễu đối thủ dù Shaw rất thèm thực hiện việc ấy. Khi gã đàn ông nằm trên vỉa hè không còn biết trời đất là gì, Shaw giúi vào tay thằng bé vài trăm euro, đẩy mạnh nó đi cùng với lời cảnh báo rất đáng sợ bằng tiếng Hà Lan. Khi tiếng bước chân vội vàng của thằng bé dần xa, Shaw biết rằng ít nhất nó không bị đói hay bỏ mạng trong đêm nay.
Lúc trở lại đường cũ, lần đầu tiên Shaw để ý thấy rằng khu trung tâm chứng khoán cũ nằm đối diện với những cô gái làng chơi ở khu đèn đỏ. Điều đó làm ông thấy lạ lẫm cho tận tới lúc suy nghĩ về điều ấy. Tiền mặt và gái điếm luôn gắn với nhau như hình với bóng. Shaw băn khoăn liệu có quý cô nào chịu nhận ít cổ phiếu thay vì lấy euro không.
Nhưng đáng mỉa mai hơn việc trung tâm chứng khoán gần nơi làm của các cô gái làng chơi là khu đèn đỏ bao bọc hoàn toàn Oude Kerk – nhà thờ cổ nhất và lớn nhất thành phố. Được xây dựng năm 1306, ban đầu là một nhà thờ gỗ đơn giản, trong hai thế kỷ sau đó nó liên tục được nối thêm và mở rộng. Thậm chí một người nào đó còn đặt một đôi vú bằng đồng xuống vỉa hè ở lối vào trước nhà thờ. Shaw từng vào trong đó vài lần. Thứ để lại ấn tượng mạnh mẽ trong ông là một loạt hình chạm khắc trên chỗ đứng của ca đoàn, mô tả những người đàn ông đi đại tiện nhiều kinh khủng. Shaw chỉ có thể suy đoán rằng hồi đó những buổi lễ phải thật dài.
Thánh thần và ma quỷ, Chúa và gái điếm, Shaw trầm ngâm khi tới giữa khu vực trái luân thường này. Người Hà Lan gọi khu vực này là Walletjes, nghĩa là “Khu tường nhỏ”. Có lẽ những gì xảy ra phía sau những bức tường nhỏ đã tồn tại ở đó. Tối nay ông sẽ biết chắc chắn.
Khu phố đèn đỏ không rộng, chỉ dài hết chừng hai con kênh, nhưng trong những khối nhà dọc theo chúng dồn rất nhiều thứ. Vào ban đêm, những cô gái làng chơi làm việc ở đây là những cô xinh đẹp nhất. Rất nhiều trong số đó là những cô gái Đông Âu cực đẹp, bị đưa đến đây với nhiều lý do không có thật, sau đó bị “rơi vào vũng bùn” – như cách người ta nói một cách nhẹ nhàng. Điều mỉa mai là những gái điếm đêm chủ yếu trưng hàng. Rốt cuộc thì có ai dám thoả mãn dục vọng trong khi hàng ngàn kẻ khác đang ngó nhìn? Vào các buổi sáng và buổi chiều, khu vực này yên tĩnh hơn, đó là khi các khách hàng có nhu cầu thực sự tìm đến những cô gái không đẹp bằng nhưng vẫn ngon lành để họ làm ca hai và ca ba trong ngày.
Phòng của gái làng chơi là thứ khó bỏ qua được bởi chung quanh chúng gắn các đèn neon đỏ sáng chói. Những căn phòng đó còn được gắn đèn huỳnh quang để những bộ đồ nghèo của các cô làm mẫu lấp lánh như ánh nắng. Shaw bước qua cửa sổ này tới cửa sổ khác – nơi những cô gái hoặc đứng yên hoặc nhảy múa, đôi lúc làm những động tác kích dục. Mặc dù mỗi năm những chiếc giường ở khu này mang lại khoảng nửa tỷ euro, thực tế là hầu hết những người tới đây chủ yếu để thỏa mãn chứ không phải để “biết” theo đúng nghĩa.
Shaw vẫn cúi đầu, đôi chân đưa ông tới một cái đích cụ thể. Gần như ông đã có mặt ở đó.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.