Danh Môn

Danh Môn - Chương 45: “ Toái Diệp tiêu tức”b


Nếu như ai khôn khéo hay tinh ý một chút sẽ nhận ra chính sách mới về nông nghiệp của triều đình có điểm rất độc đáo. Đó là mỗi hộ dân dù nhân khẩu nhiều hay ít cũng đều được nhận cùng một tiêu chuẩn ruộng đất. Như vậy vô hình chung, quy mô của các hộ sẽ nhỏ đi đồng thời việc sinh con gái cũng sẽ trở thành một phong trào phổ biến. Điều này cũng chính là điều mong muốn của những nhân vật đầu não trong triều đình. Họ mong muốn rằng trong năm mươi năm này, số lượng nhân khẩu cùng ruộng cày có thể khôi phục đạt mức như năm Thiên Bảo thứ nhất, khi đó dân số Đại Đường là năm ngàn vạn người.
Sáng sớm hôm nay, Trương Hoán đã dẫn theo tất cả các quan lại trong triều đình đi tới ngoại ô phía đông của thành Trường An để giúp dân chúng thu hoạch lúa. Vị hoàng đế này, đầu đội mũ nan, chân đi giày vải, trên người mặc một chiếc áo ngắn, tay cầm lưỡi hái cùng thu hoạch lúa với dân chúng. Nhìn Trương Hoán như một nông dân thứ thiệt vậy. Đây cũng không phải là lần đầu tiên vị hoàng đế này cùng tham gia cắt lúa với bà con. Ngay từ lúc còn ở Võ Uy, Lũng Hữu, Trương Hoán cũng đã dẫn theo các quan viên của mình giúp dân chúng thu hoạch lúa. Và từ đó việc làm này đã trở thành thông lệ. Đối với các quan viên thì điều này không hề bắt buộc, tất cả đều có thể tham gia hoặc không tham gia. Nếu có thành ý thì tới, còn không muốn đi thì cũng không cần miễn cưỡng. Nhưng có điều đây cũng là một dịp để khảo hạch về điều thiện quan trọng nhất trong bốn điều thiện của kẻ làm quan: nghe được điều đức nghĩa.
Có thể cùng tham gia gặt lúa với dân chúng cũng chưa chắc là có thể nghe được những điều đức nghĩa. Nhưng nếu không tham gia thu hoạch lúa hay tham gia qua loa hời hợt cho có mặt thì tuyệt đối sẽ không thể nào nghe được dù chỉ một lời bàn luận về đức nghĩa. Hàng năm đều có các Ngự sử giám sát đi các nơi để điều tra, thu thập về tình hình quan lại ở các địa phương. Dĩ nhiên các Ngự sử giám sát này, một là không hỏi các quan viên, hai là không vào nha môn mà bọn họ đến tận các bờ ruộng, gặp từng người dân để hỏi han về các quan viên của địa phương đó. Ngoài ra, các Ngự Sử Giám Sát này còn thường xuyên nhận được các báo cáo bí mật của các phòng Giám sát. Ánh mắt của nhân dân sáng rõ như tuyết, sẽ không dễ dàng tha thứ cho bất cứ tên tham quan, hay những tên quan biếng nhác nào cả. Cho nên mỗi vụ thu hoạch lúa, các quan viên của Đại Đường đều ra tận ruộng, cùng với bách tính tham gia làm lụng trên các thửa ruộng.
“ Bệ hạ, người cũng nên nghỉ ngơi một lát đi thôi” Hàn tướng quốc đứng thẳng người, lau mồ hôi cười nói với Trương Hoán.
Trương Hoán cũng gật đầu cười nói: “ Được rồi, chúng ta nghỉ ngơi một chút đi”
Hắn nhìn về phía xa xa thấy nhi tử Lý Kỳ của mình đang thỉnh giáo một lão nông về cách cắt lúa. Trương Hoán cũng không quấy rầy việc làm của Lý Kỳ. Hắn ngồi bệt xuống một bờ ruộng ở gần đó để nghỉ ngơi. Một tên thị vệ bưng tới cho hắn một siêu nước. Sau khi uống mấy ngụm nước, hắn đưa mắt nhìn về phía Hàn tướng tướng quốc cười nói: “ Hàn tướng quốc à, áo lao động khanh đang mặc hình như chính là cái mà khanh đã mặc khi đi thu hoạch lúa năm ngoái phải không”

Hàn tướng quốc kinh ngạc nói: “ Cái áo mà thần mặc năm ngoái là máu trắng, năm nay thần đã đem nó nhuộm thành màu lam rồi. Sao bệ hạ lại có thể nhìn ra được vậy”
“ Bởi vì những mụn vá này đây” Trương Hoán vừa nói vừa chỉ vào một đường khâu vá ở trên tay áo của Hàn tướng quốc: “ Trẫm còn nhớ rất rõ, là năm ngoái tướng quốc làm không cẩn thận nên đã làm rách tay áo, chẳng phải là chỗ này hay sao”
Nói đến đây Trương Hoán khẽ thờ dài một hơi: “ Khi còn ở Lũng Hữu trẫm đã nghe nói tướng quốc là người hết sức tiết kiệm, áo lông mặc mười năm mới bỏ đi, chỗ ở chỉ cần đủ tránh gió mưa, không vì người nhà mà tư hữu tài sản riêng. Thấy rằng tướng quốc là người thân phận đứng đầu bách quan mà vẫn cần kiệm, không hề thay đổi bản sắc của mình. So sánh một chút, trẫm tự thấy mình thật là xấu hổ.”
Hàn tướng quốc vội vàng đứng lên khom người thi lễ nói: “ Bệ hạ, xin người đừng tự trách mình như vậy, bệ hạ chính là một quân vương cần kiệm hiếm có từ xưa đến nay rồi. Cho đến nay, hậu cung bất quá chỉ có mười người, số cung nữ, hoạn quan cũng chỉ có năm trăm mà thôi. Năm xưa Huyền Tông hoàng đế, hậu cung có tới hơn bốn vạn người. Năm nào cũng tiêu tốn của quốc gia đến mấy trăm vạn bạc cho bọn họ. Vì vậy dù nói thế nào đi nữa thì cũng không thể không nói đây chính là một trong những căn nguyên của loạn An Sử. Trong khi đó từ khi bệ hạ lên ngôi tới nay mới có năm năm, nhưng luôn quan tâm chú trọng tang nông (dệt – nông nghiệp), phát triển công thương nghi
Ngay sau đó Trương Hoán cầm lấy mấy bông lúa vừa cắt, rồi sắp xếp trên mặt đất một sơ đồ đơn giản. Sau đó hắn chỉ vào sơ đồ và nói với Hàn tướng quốc bằng một giọng nghiêm túc: “ Nếu như nơi này là Di Bá Hải. Hiện tại Toái Diệp quân của chúng ta đã không chế được hết cả lưu vực của con sông Y Lệ hà. Trẫm đang tính là sẽ cho Toái Diệp quân tiếp tục ngược lên phía bắc, rồi ở mặt phía nam và phía tây của Di Bá Hải ta định cho xây dựng ba tòa thành, để quân đội đồn trú lâu dài, như thế sẽ hoàn toàn cắt đứt việc trao đổi mua bán hàng hóa của Đại Thực với Hồi Hột. Và dĩ nhiên đến lúc ấy Đường quân chúng ta ở Di Bá Hải tất sẽ xảy ra những cuộc xung đột quy mô nhỏ với Hồi Hột. Trẫm muốn hỏi ý kiến của khanh xem nếu như trẫm vận chuyển một trăm vạn thạch lương thực đến Toái Diệp, thì trên đường tiêu hao ít nhất cũng là một trăm năm mươi vạn thạch. Ngoài ra còn phải có năm mươi vạn quan tiền, như vậy thì không biết triều đình có đáp ứng được hay không?”
Hàn tướng quốc trầm ngâm một lát rồi nói: “ Vấn đề lương thực thì không quan trọng lắm, năm nay Lũng Hữu được mùa, nên hoàng thượng có thể trực tiếp hạ chỉ cho các quan lại ở Lũng Hữu trưng thu lương thực. Còn năm mươi vạn quan tiền thì không nhất thiết phải bắt buộc vận chuyển từ Trung Nguyên. Sơ Lặc là cơ sở đúc tiền của Đại Đường ta, cho nên chúng ta hoàn toàn có thể điều phối tiền bạc từ Sơ Lặc đến Toái Diệp. Như vậy chẳng phải là thêm thuận tiện hơn hay sao. Hơn nữa triều đình ta cũng không thiếu thốn gì năm mươi vạn quán tiền này. Những hành động quân sự vừa qua của bệ hạ đã mang lại những lợi ích chiến lược cho Đại Đường. Thần tin tưởng rằng nhất định các vị tướng quốc cũng sẽ ủng hộ chủ trương này của bệ hạ thôi”
“ Trẫm cũng tin tưởng rằng, mọi người sẽ ủng hộ kế hoạch này. Chẳng qua là chiến dịch Toái Diệp vừa mới kết thúc, bây giờ nếu như xung đột ở Di Bá Hải lại dấy lên nữa, thì quả thật trẫm cảm thấy rất áy náy với dân chúng”
Trương Hoán vừa mới nói tới đây, thì bỗng nhiên có một kỵ binh cưỡi khoái mã chạy từ quan đạo tới chỗ hắn. tên kỵ binh kia chính là người chịu trách nhiệm truyền tin tức. Hắn tung mình nhảy xuống ngựa, bước nhanh tới chỗ Trương Hoán. Tên thị vệ hỏi hắn mấy câu rồi dẫn hắn tới chỗ hoàng thượng và Hàn tướng quốc đang ngồi nghỉ.
“ Bệ hạ, ở đây cớ tin tình báo khẩn cấp từ Toái Diệp”
Trương Hoán nhận lấy tín thư được truyền bằng đường chim câu, hắn mở ra xem qua một lượt, trong ánh mắt lộ ra nét vui mừng, nhưng trên nét mặt dường như có băn khoăn. Hắn quay sang nói với Hàn tướng quốc: “ Theo như tin tình báo này thì có hai tin tức truyền đến từ Toái Diệp, một là Thôi Diệu đã được tha và hắn có mang trở về một bức thư quan trọng của Đại Thực Calipha. Còn một tin tức khác đến từ Yêu Long thành, theo đó có một nhân vật trọng yếu của Đại Thực đã quá cảnh qua đây, nhân vật này hình như là tể tướng của bọn họ tên gọi là Diệp Cáp Nhã, ông ta đang định đi sang Hồi Hột”

Thời gian đã bước sang tháng bảy, đây chính là mùa mà khung cảnh của Di Bá Hải dễ làm say lòng người nhất. Thời tiết đang bắt đầu bước qua mùa hè, sự oi bức, nóng nực cũng đã biến mất. Nhìn bầu trời cứ như một người lữ khách kiệt sức, đang nằm thoi thóp hấp hối bên một dãy núi thấp. Mùa thu đã bắt đầu buông rơi những hình ảnh của mình bên bờ hồ. Rừng tuyết tùng cứ trải dài mênh mông vô tận, và những thảm cỏ cũng như dày hơn. Trên thảo nguyên, những người chăn nuôi đang chăn thả cho bầy cừu của mình gặm cỏ. Khung cảnh ấy thật là bình yên.
Ngày hôm nay, bầu trời quang đãng, chỉ có những đám mây trắng nhẹ nhẹ, nhởn nhơ trôi. Ở phía xa kia, trên mặt hồ phẳng lặng như đang ngủ say, có một đội tàu thuyền đang rẽ sóng mà lướt đi. Cái đội tàu thuyền ấy nối đuôi nhau kéo dài dễ có đến mười dặm trên mặt hồ. Đội thuyền này tập hợp hơn ba trăm chiến thuyền với ba thuyền buồm dẫn đầu, làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực cũng như các loại vật tư quân sự khác. Những cánh buồm no gió “ phưỡn cái bụng phệ” như cái trống vậy. Thuyền cứ thế nương theo gió nhắm thẳng hướng đông mà lướt đi. Cắm trên mũi của đại thuyền đi đầu hàng chính là Đại Đường long kì, với một mặt màu đỏ vàng. Lá đại kỳ đang phấp phới tung bay trong gió.
Chủ soái Vương Tư Vũ đứng trên mũi thuyền, ông ta phóng tầm mắt ngắm nhìn mặt hồ rộng vô biên vô tận tựa như biển khơi vậy. Thỉnh thoảng lại có những con quái ngư hình thể to lớn phi thẳng lên khỏi mặt nước, rồi chúng lại nặng nề mà trầm mình xuống hồ nước. Dường như chúng đang tỏ ý phản đối, không hài lòng với những vị khách không mời mà cứ ầm ầm kéo đến, làm rối loạn hết cả sự bình yên của Di Bá Hải này.
Nhìn tổng thể Di Bá Hải là một hồ nước có hình dáng hẹp và dài. Trong đó chiều đông –tây thì dài, còn chiều nam –bắc thì lại khá hẹp. Diện tích của Di Bá Hải rất rộng, nó gấp bốn lần diện tích của Thanh Hải hồ. Một điểm rất đặc biệt của Di Bá Hải chính là nước ở hồ này một nửa là nước mặn, một nửa là nước ngọt. Ở giữa có một bán đảo kéo dài dẫn vào hồ. Bán đảo này chia hồ nước thành hai bộ phận. Chiều rộng của bán đảo này chỉ có sáu, bẩy dặm thôi, nhưng bản thân nó lại có một đường nước nhỏ chảy thông suốt. Chính đường nước này đã đem nước ở trong hồ chia làm hai, phía tây là nước ngọt, phía đông là nước mặn. Đường quân đã cho xây dựng một tòa quân thành ở trên chính bản đảo này, và đặt tên cho nó là Đại Hồ thành.
Lần này Vương Tư Vũ tới đây là để thị sát về tiến độ và tình hình xây dựng Đại Hồ thành. Theo sự chỉ đạo của hoàng thượng cùng triều đình, thì Toái Diệp quân sẽ phải cho xây dựng xung quanh Di Bá Hải này tất cả là ba tòa quân thành. Hiện tại có hai tòa quân thành đã đang được xây dựng. Một ở phía bắc Di Bá Hải, gọi tên là Di Bá Hải thành. Và một tòa thành khác đang được xây dựng trên bán đảo của đại hồ và được gọi là Đại Hồ thành. Hai tòa thành trì này nằm ở vị trí đối diện nhau, cách nhau không tới mười dặm. Chúng sẽ cùng lúc ở hai phía bắc nam tạo thành thế gọng kìm bóp chặt eo biển Di Bá Hải. Số lượng Đường quân hiện tại ở hai tòa thành này là ba ngàn người, nhiệm vụ chính là ngăn chặn các thương đội của ngoại quốc thông thương với Hồi Hột.
“ Đại soái, mau nhìn kìa” Một tên lính chỉ về phía xa xa rồi hô to báo cho Vương Tư Vũ. Vương Tư Vũ giơ tay che ngang mày để khỏi bị ánh nắng mặt trời làm chói mắt, rồi phóng tầm mắt. Ông ta thấy ở phía xa đó xuất hiện một vệt đen dài dài. Nơi đó chính là bán đảo của Di Bá Hải rồi.
Đại Hồ thành được bắt đầu khởi công xây dựng từ tháng tư. Khu vực khống chế và kiểm soát của Hồi Hột nằm ở phía đông của hồ, cách nơi này chừng sáu trăm dặm. Còn ở phía nam là sa mạc rộng mênh mông, bát ngát, đó là lãnh thổ sớm nhất của những người tây Đột Quyết. Năm Hiển Khánh thứ hai, tướng nhà Đường là Tô Định Phương đánh bại bọn người tây Đột Quyết và từ đó phần lãnh thổ của Di Bá Hải chính thức được sáp nhập vào bản đồ của Đại Đường. Ban đầu nó được quy về cho Bắc Đình đô hộ phủ quản hạt. Nhưng sau cuộc đại chiến Đát La Tư, Đường quân đã toàn diện rút linh khỏi khu vực phía tây Thông Lĩnh và nhân cơ hội đó bọn người Cát La Lộc đã cướp lấy toàn bộ lưu vực Di Bá Hải và Hồi Hột cũng nhân cơ hội Đường quân rút lui, đục nước béo cò, tiến hành bành trướng về phía tây và chiếm luôn bờ đông của Di Bá Hải. Mãi cho tới tận hôm nay, khi mà bọn người Cát La Lộc đã bị diệt vong, chiến dịch Toái Diệp cũng đã thắng lợi Đại Đường lại một lần nữa có cơ hội tây tiến và ngược bắc. Toàn bộ một khu vực lãnh thổ rộng lớn ở phía đông sông Dược Sát cũng đã nằm trong phạm vi kiểm soát của Đại Đường rồi.
Đại Đường cũng tùy theo tình hình mà thay đổi phương pháp thống trị. Triều đình cho thành lập các quân trấn (quân đội đồn trú ở một đơn vị hành chính như thị trấn, xã …) như là một biện pháp hiệu quả nhất để bảo vệ và quản lý các phần lãnh thổ rộng lớn mà Đại Đường thực tế khống chế. Bắt đầu từ tháng tư, Toái Diệp chính thức trở thành trụ sở của Tây Vực đô hộ phủ. Và ngay sau đó, Đại Đường lại cùng với Thạch quốc, Bạt Hãn Na quốc, và một số nước khác, thành lập Đại Uyển đô đốc phủ. Phong cho Mã lão tướng quân làm Đại Uyển đô đốc, Võ Nguyên Hành làm Trưởng sử. Đại Uyển đô đốc phủ được chia ra làm mười quân trấn, như: Đát La Tư quân trấn, Câu Chiến Đề quân trấn, Bạch Thủy thành quân trấn, Chân Châu thành quân trấn, thậm chí là ở tận điểm xa nhất của phía bắc cũng có Tây Hải thành quân trấn ( Tây Hải ngày nay chính là Hàm Hải). Như vậy thì tính ra từ đô thành Thác Chiết của Thạch quốc tới đô thành Khát Tắc của Bạt Hãn Na quốc, số quân đồn trú đã lên tới hai vạn người. Với số quân đội này hoàn toàn đủ sức bảo vệ và khống chế được một vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía tây Toái Diệp.
Đội tàu thuyền của Vương Tư Vũ chậm rãi tiến sát tới bến tàu. Bến tàu nằm ở đoạn giữa của bán đảo ở hồ lớn này. Ba mặt của nó là đất đai bao bọc, chỉ có một lối ra vào mà thôi. Đây có thể nói là một bến cảng rất tốt mà thiên nhiên đã tạo ra. Đại Hồ thành đã dựa trên cái vũng vịnh của thiên nhiên để mà tu tạo, xây dựng nên bến cảng cho phù hợp và hoàn mỹ hơn. Đại Hồ thành được xây dựng trên một gò núi, nó nằm cách điểm gần nhất của đại hồ chừng sáu bảy dặm, và cách với đất liền năm dặm. Xung quanh nó được bao trùm bởi rừng tuyết tùng rậm rạp. Ngay trước mắt, ở bên phía đối diện và Di Bá thành cũng đã được xây dựng xong trông rất chắc chắn, bề thế. Còn Đại Hồ thành, xây dựng vẫn còn chưa xong, gần ngàn tên công binh đang làm việc ngày đêm để đẩy nhanh tốc độ xây dựng, cố gắng hoàn thành công việc trước mùa đông năm nay.ệp, hạ thuế khóa, mở rộng giáo dục. Quả thật là đã rất được sự tin cậy của dân chúng. Thần sở dĩ là đơn giản tiết kiệm, cũng bởi vì ảnh hưởng đức tính của bệ hạ, không dám xa xỉ lãng phí.
Trương Hoán yên lặng, gật gật đầu, hồi lâu mới nói: “ Mạnh Tử viết, sống trong gian nan cực khổ, thì khi chết đi sẽ được an lạc. Mấy tháng trước đây trẫm đã phóng túng cho hậu cung dệt may bộ quần áo xa xỉ này đây. Nghĩ lại trẫm thấy mình đã chi quá tay rồi. Vì thế trẫm đã hạ chỉ xuống bên dưới, không cho phép nhập các loại gấm Tứ Xuyên cũng như các mặt hàng xa xỉ phẩm khác vào trong hậu cung. Trẫm còn định nghiêm cấm thị trường, không cho phép bán ra các loại lụa là, gấm vóc Tứ Xuyên. Nhưng trẫm nghĩ lại thấy không chừng Hồi Hột lại cần những thứ này nên trẫm đã thay đổi chủ ý.”
Nói tới đây, khóe miệng của Trương Hoán lộ ra một nụ cười cổ quái, hắn nhìn sang Hàn tướng quốc một chút, ý chừng muốn xem vị tướng quốc này có hiểu dụng ý của mình đang muốn chuyển sang chủ đề khác hay không. Hàn tướng quốc cũng cười, dĩ nhiên là ông ta hiểu được ý tứ của hoàng thượng. Sau chiến dịch Toái Diệp thành công thì Hồi Hột nhất định là mục tiêu tiếp theo cần xử lý. Nhưng dĩ nhiên là hoàng thượng không muốn lại phải dùng đến binh đao, mà dụng ý của ngài là hy vọng có thể khiến nội bộ Hồi Hột tự chém giết lẫn nhau, từ đấy mà dẫn đến tự sụp đổ. Để làm được điều này thì cần phải có thủ đoạn thật là cao minh, hoặc là mượn đao giết người, hoặc là phải ly gián, phân hóa. Có như vậy mới có thể tiêu diệt hoàn toàn cái mối uy hiếp lớn nhất với Đại Đường lúc này.
Trên thực tế, Đại Đường cũng đã từng áp dụng kế sách tương tự để làm cho dân tộc Thổ Phiên tự suy yếu, bạc nhược đi. Một mặt, Đại Đường vẫn tán đồng việc liên minh giữa hai nước, cổ vũ chủ trương mở rộng về hướng tây của Thổ Phiên. Nhưng mặt khác Đại Đường lại âm thầm, nghiêm khắc không chế việc giao dịch buôn bán với dân tộc Thổ Phiên. Đại Đường nghiêm cấm thương nhân và người dân của mình bán lương thực, đồ sắt và các loại vật tư chiến lược khác cho Hồi Hột. Mà chỉ bán hoặc trao đổi cho bọn họ các sản phẩm đồ sứ, tơ lụa, trà, và những sản phẩm xa xỉ khác để đổi lấy dê bò của họ. Từ đó từng bước là suy yếu, hao mòn thực lực của dân tộc Thổ Phiên. Từ đó đẩy dần, “ giúp đỡ” để dân tộc này đi vào cái bẫy diệt vong. Cuối cùng cả Thổ Phiên chìm trong nội chiến liên miên. Đại Đường nghiễm nhiên “ bất chiến tự nhiên thành”
Tình hình của Hồi Hột hiện nay cũng giống như vậy. Hai tháng trước đây Hồi Hột chính thức cùng với Đại Thực kết làm đồng minh, và ngược lại tuyên bố không đội trời chung với Đại Đường. Đồng thời đem sửa quốc danh từ Hồi Hột sang Hồi Cốt. Với việc thực hiện một loạt các hành động ấy, cùng với những mẫu thuẫn căng thẳng vốn đã tồn tại trong nội bộ Hồi Hột trước đó, thì chính tân Khả Hãn Hiệt Kiền Già Tư là người đã nhân danh vì tương lai của dân tộc quyết không chùn bước, mà quay sang đối đầu và gây hấn với Đại Đường. Chính những động thái này của ông ta đã khiến cho nội bộ Hồi Hột xuất hiện một cuộc nội chiến. Các bộ tộc “ thân Đường” như Phó Cố, Hỗn, A Bố Tư cùng với những tộc nhân của Dược La Cát Linh, đã tập hợp lại với nhau, nhân số lên đến mấy chục vạn người. Tất cả những người này đều tiến về phía đông định cư khắp cả một dải Khả Đôn thành. Sau khi thương nghị tất cả đồng ý tôn Dược La Cát Linh lên làm Khả Hãn, thỉnh cầu Đại Đường để đứng lên chống lại Hiệt Kiền Già Tư.
Dĩ nhiên tin tức này đối với Đại Đường là một tin tức rất có lợi, nhưng Trương Hoán cũng không hề vội vàng xuất binh tấn công Hiệt Kiền Già Tư. Sở dĩ như vậy là bởi vì sau chiến dịch Toái Diệp, Đại Đường cũng đã mỏi mệt, cần phải có thời gian nghỉ ngơi để lấy lại sức. Lý do thứ hai chính là việc, bản thân Trương Hoán đã dự liệu đi năm nước cờ trong cuộc chơi này. Ở thời điểm hiện tại cũng chỉ có thể đi tới nước thứ ba mà thôi, đó là việc ủng hộ phái “ thân Đường” thực hiện việc phân chia Hồi Hột, làm cho thực lực của Hiệt Kiền Già Tư bị hao mòn, suy giảm dần đi. Nước cờ thứ tư mà vị hoàng đế này định đi đó là phân hóa việc trao đổi buôn bán với Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý. Trương Hoán sẽ chỉ cho phép vận chuyển các đồ sứ, tơ lụa, các mặt hàng xa xỉ phẩm từ Đại Đường sang Hồi Hột trao đổi mua bán. Đồng thời nghiêm cấm mang các loại vật tư chiến lược lên phương bắc. Dĩ nhiên đây cũng chỉ là một cách ngăn ngừa kìm hãm Hồi Hột. Đồng thời còn phải khóa chắt một lối khác, đó là không để cho Hồi Hột nhận được vật liệu trợ giúp từ phía tây, cũng không được để cho Hồi Hột sử dụng các sản phẩm xa xỉ của Đại Đường đem đi trao đổi lương thực với phương tây.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.