Tôi rất lười dạy sớm, nhưng sáng hôm đấy vẫn mò dậy vì có tiết lúc tám giờ mười lăm. Mặc quần áo xong, tôi đánh răng, rửa mặt thật nhanh, rồi trang điềm vì sợ muộn học.
– Vẫn còn hai mươi phút nữa, phải trang điểm để nhìn dễ thương chút. – Tôi nhủ thầm.
Trang điểm xong, tôi lao thẳng đến trường, vừa đi vừa lên kế hoạch trong ngày:
– Đúng rồi, học xong mình sẽ đi ăn sáng, cũng là như ăn trưa luôn, sau đó mình sẽ đi mua sắm, xem có gì hay ho không.
Đến trường, tôi hì hục bò từ tầng một lên tầng hai, rồi lại thở hổn hển chạy hết hành lang nọ đến hành lang kia để tìm lớp, cuối cùng tôi cũng mò đến nơi. Ở trong lớp đã có ba, bốn người ngồi, toàn những gương mặt xa lạ, đa số là những người trẻ bằng tuổi tôi, cũng có một vài người già, chắc là đi học lại sau khi nghỉ hưu. Thời gian trôi đi nhanh hơn, trong tích tắc tất cả chỗ ngồi đã được sử dụng, căn phòng bỗng dưng trở nên chật chội, thiếu dưỡng khí. Tôi vội chạy ra mở cửa sổ. Đúng lúc đó giáo sư vào lớp. Ông ấy từ từ bước vào, nhìn bọn tôi một lượt rồi nở một nụ cười quái dị. Môi của ông ta nhếch lên một chút, tạo ra nụ cười nửa miệng, người bình thường gọi đó là ‘‘Cười khẩy‘‘ hoặc “Cười đểu“ tùy vào cách suy diễn.
Đầu óc tôi quay cuồng… Đây là giáo sư triết học đây ư? Đây là hình ảnh của một triết gia đó ư? Hồi trước tôi cứ nghĩ rằng, triết gia phải là một người đức độ, hiền từ và toát ra khí chất của một người có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, giống như một vị cao tăng trong phật giáo, hoặc là một tu sĩ đã ở ẩn trên núi lâu năm, râu tóc bạc phơ. Mà quả thật tóc giáo sư bạc thật, nhưng đó không phải là bạc bình thường, mà là bạc trói lóa, nói đúng là hơn là tóc bạch kim, cứ như ông ấy đã đi nhuộm tóc ở một tiệm làm tóc nào nó vậy. Ông ta mặc một chiếc áo phông màu đen, quần jean, đi giày thể thao.
Sau khi đặt một vài tờ giấy lên bàn, giáo sư đi ra giữa lớp học và bắt đầu giảng bài. Ông ta nói không nhanh, cũng không chậm nhưng cũng đủ để làm đầu óc tôi nhức nhốt.
– Ôi… Tiếng đức! Tại sao tiếng đức của mình vẫn kém như vậy chứ? – Tôi nhủ thầm.
Nhưng khi căng mắt và căng tai ra nghe, tôi vẫn hiểu được một chút. Thỉnh thoảng tôi tỏ ra vẻ hiểu biết và suy nghĩ trầm ngâm khi giáo sư liếc qua chúng tôi.
– Đúng rồi! Mày phải tỏ ra vẻ hiểu biết. Đã dấu dốt thì dấu luôn đi, như thế còn giữ được một chút danh dự. – Tôi nghĩ.
Lúc đó, tôi chợt nhận ra rằng, giáo sư không nhìn chúng tôi nhiều lắm, mà ánh mắt của ông thường hay đảo về phía một bạn sinh viên trong lớp. Ánh mắt của ông ta hay liếc về một cô gái châu á giống tôi. Bạn này ngồi ở góc tường, phía bên trái. Vì bàn học của bọn tôi được sắp xếp theo hình chữ U, nên cho dù ngồi ở đâu cũng có thể nhìn thấy mặt của tất cả mọi người trong lớp.
Tôi nhìn về bạn nữ. Đó là một bạn nữ người gốc châu á, có một mái tóc dài đen, đôi mắt to. Từ cô ấy toát ra một vẻ lạnh lùng, còn lạnh hơn cả vị giáo sư đang đứng giảng trước lớp. Cô ấy chăm chú nghe bài giảng, thậm chí chẳng để ý gì đến tôi, cho dù tôi có nhìn cô ta bao lâu đi nữa. Đúng là một con người quái dị!
Tôi để ý thấy, giáo sư chỉ nhìn về phía cô ấy, khi cô ấy không nhìn về phía ông ta. Đó có phải là một cái nhìn giấu diếm không nhỉ? Tôi cũng không biết, chỉ biết rằng sau buổi học hôm đó, tôi đã chăm đọc sách hơn, để tiếng đức của tôi có thể tiến bộ thêm.
Nhưng đôi khi… Tôi vẫn nhớ về đôi mắt và gương mặt lạnh lùng của cô bạn châu á trong lớp.
– Tại sao những người lạnh lùng lại hay cuốn hút người khác nhỉ? – Tôi hỏi Nina.
– Mình cũng không biết nữa, nhưng như thế nào mới là lạnh lùng? – Nina hỏi lại tôi.
Nghe Nina hỏi xong, tôi cũng chẳng buồn trả lời nữa, chỉ cười hì hì cho qua chuyện. Có lẽ văn hóa của bọn tôi khác nhau, nên thỉnh thoảng cô ấy nói gì tôi cũng chẳng hiểu, mà tôi cũng không muốn tâm sự chuyện ở trường cho Nina nghe, vì chắc chắn cô ấy sẽ nghĩ rằng tôi suy diễn và tưởng tượng quá nhiều. Tôi biết, rằng Nina thật sự rất thích ông giáo sư tóc màu bạch kim, không thể nói xấu ông ấy trước mặt Nina được.
Rồi buổi tối định mệnh ấy cũng đến. Nina và một số người bạn nữa rủ tôi đi bar. Tôi nhận lời, vì tối thứ bảy tôi không muốn ở nhà một mình uống trà như bà cụ non. Ánh đèn đường sáng lập lòe, chúng tôi vừa đi vừa cưới nói rôm rả, đúng lúc đó tôi nhìn thấy từ xa có một người vận đồ đen. Đó là một người phụ nữ cao, đi giày cao gót và mang một chiếc túi màu đỏ. Ở thành phố tôi đang sống có rất ít người châu á, nên khi nhìn thấy người châu á tôi nhận ra ngay. Chỉ có điều tôi không ngờ rằng đó lại chính là bạn nữ ở trong lớp học của ông giáo sư tóc bạch kim.
Cô ấy nhìn vẫn vậy, gương mặt vẫn sáng sủa, lạnh lùng. Bây giờ tôi mới biết thêm được về sự sành điệu và ăn chơi của của cô ấy. Nhìn cô đi từ xa đến, giống như một người mẫu vậy. Tôi bắt đầu cảm thấy máu mình hơi sục sôi vì ganh tị. Thật ra thì, tôi vẫn chưa sờ đến một đôi giầy cao gót nào và cũng không dám đi, vì sợ đau chân.
– Cô ta chắc phải là một người từng trải, sành điệu và lạnh lùng. Không biết cô ta là người nước nào nữa? – Tôi nghĩ thầm
Sự tò mò làm cho tôi cởi mở hơn hẳn. Khi cô ấy sắp bước qua bọn tôi, tôi chủ động bắt chuyện với cô ấy bằng tiếng đức:
– Xin chào! Cậu có nhận ra mình không?
Cô ta chững chân lại năm giây, sau đó nhìn thẳng vào mắt tôi. Cái nhìn đó làm cho tôi có cảm giác ngượng ngùng khó tả.
– Cậu cũng học tiết của giáo sư Liepe đúng không? – Có ấy nói một cách tự tin, pha chút mệt mỏi.
– Ừ, rất hân hạnh làm quen với cậu. – Tôi nói.
– Tên cậu là gì? – Cô ấy hỏi tôi. Cứ như thể cô ấy vừa mới là người đầu tiên bắt chuyện với tôi vậy.
Tôi bắt đầu biến từ người chủ động thành người bị động.
– Tên mình là Đại Dương. Còn cậu. – Tôi trả lời và cố tỏ ra vui vẻ.
– Cậu là người Việt Nam à? – Cô ấy hỏi.
– Ừ. Đúng rồi! – Tôi trả lời.
– Tên mình là Cát Bụi. – Cô ấy nói với tôi, rõng rạc bằng tiếng việt.
Cho đến tận bây giờ, khi nghĩ về buổi tối hôm đó, tôi không biết mình nên buồn hay nên vui.